Loại hình 1: Thích Ca Mâu Ni Phật Tam tôn tượng 释迦牟尼佛三尊象.
Tam tôn tượng xuất hiện sớm nhất lấy Phật Đà Thích Ca Mâu Ni 佛陀释迦牟尼làm chủ tôn trung gian, Hiếp thị (1) hai bên là Di Lặc 弥勒 và Quán Âm 观音 hiệp trợ giáo hoá chúng sinh.
Tổng quan mà nói, cách tạo tượng thời kì này vẫn chưa xác định, chưa có quy định nghiêm cách, nhân đó mà vị trí hoặc trì vật (vật cầm trong tay) của hai vị Bồ Tát thường không cố định, phải dựa vào đề kí tạo tượng thuyết minh mới phân biệt được.
a- Di Lặc Bồ Tát bên phải, đỉnh đầu có Xá lợi tháp, tay cầm thuỷ bình. Quán Âm Bồ Tát bên trái, đỉnh đầu có Hoá Phật, tay cầm hoa sen.
Tạo tượng Quán Âm Kiền Đà La 犍陀罗 sớm nhất chưa có quy định nghiêm cách, thường cùng Di Lặc Bồ Tát đồng là Bồ Tát tuỳ thị của Thích Ca Mâu Ni, hình tượng cả hai rất gần giống nhau, nói chung Bồ Tát tay cầm thuỷ bình là Di Lặc, Bồ Tát ở đỉnh đầu có Hoá Phật là Quán Âm. Nhưng, đó cũng hoàn toàn không phải là nhất định, cũng có một số ít trường hợp ngược lại, có thể thích dụng ở khu vực Tây Tạng.
b- Quán Âm Bồ Tát bên phải. Di Lặc Bồ Tát bên trái
c- Di Lặc Bồ Tát bên phải, sắc da sậm, cầm bảo bình. Quán Âm Bồ Tát bên trái, sắc da nhạt hơn, cầm hoa sen.
Loại hình 2: A Di Đà Phật Tam tôn tượng 阿弥陀佛三尊象.
Lấy A Di Đà Phật 阿弥陀佛 làm chủ tôn trung gian, tại đất Hán và khu vực Tây Tạng, tuỳ thị Bồ Tát mỗi nơi khác nhau.
a- Đại Thế Chí Bồ Tát 大势至菩萨, đỉnh đầu có bảo bình. Quán Âm Bồ Tát 观音菩萨, đỉnh đầu có Hoá Phật.
b- Kim Cang Thủ Bồ Tát 金刚手菩萨, sắc da sậm, cầm hoa sen xanh, trên hoa sen có chày kim cang. Quán Âm Bồ Tát观音菩萨 sắc da trằng, cầm hoa sen.
Loại hình 3: Tam tộc tính tôn 三族姓尊.
“Tam tộc tính tôn” là Tam tôn thức thuộc Mật tông của Tây Tạng. Trong tranh trục cuốn của Mật tông, 3 vị Kim Cang Thủ Bồ Tát 金刚手菩萨, Quán Âm Bồ Tát 观音菩萨 và Văn Thù Bồ Tát 文殊菩萨 thường xuất hiện chung với nhau, chính là “Tam tộc tính tôn”, lần lượt đại biểu cho 3 thuộc tính “phục ác” 伏恶 “từ bi” 慈悲 và “trí huệ” 智慧. Nhưng Tam tộc tính tôn ở những thời kì khác nhau cũng có một số biến hoá nhỏ, trong đó Kim Cang Thủ đại biểu cho phục ác, trong tranh trục cuốn, từ “Bố Tát tướng” 菩萨相 ở đầu thế kỉ thứ 12 chuyển biến thành “phẫn nộ tướng” 忿怒相 sau thế kỉ thứ 13. Quán Âm đại biểu cho từ bi, từ “Liên hoa thủ” 莲华手 của thời kì đầu chuyển biến thành “Lục tự Quán Âm” 六字观音.
Loại hình 4: Tam Đại sĩ 三大士.
Cuối cùng là “Tam Đại sĩ” trong Hiển tông (2) thế giới 显宗世界. Bắt đầu từ thời Tống, Trung Quốc xuất hiện tam tôn thức, lấy 3 vị Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm 千手千眼观音, Văn Thù Bồ Tát 文殊菩萨, Phổ Hiền Bồ Tát 普贤菩萨cùng đứng ngang hàng nhau. Trong đó, Văn Thù và Quán Âm lần lượt đại biểu cho trí huệ và từ bi, còn Phổ Hiền thì chưa nói rõ thuộc tính. Tam Đại sĩ về sau diến biến thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh” 华严三圣, chính là Tì Lô Giá Na Phật 毗卢遮那佛 (tức Đại Nhật Như Lai 大日如来), Văn Thù Bồ Tát文殊菩萨và Phổ Hiền Bồ Tát 普贤菩萨. Lúc này, Mật tông giáo chủ Đại Nhật Như Lai được nhập vào Hiển tông 显宗.
Chú của người dịch
1- Hiếp thị 脅侍.
Theo Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn:
Theo Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn:
“Vị Hiếp sĩ 脅士. Lại kêu là Hiếp thị 脅侍. Hiệp trì 挾持, là vị Bồ Tát đứng hầu ở hai bên cạnh sườn Phật. Sĩ là Đại sĩ 大士, tiếng dịch chữ Bồ Tát, Hiếp 脅 là cạnh sườn, vì các vị Bố tát ấy thường theo hầu hai bên cạnh sườn Phật, tán trợ Phật giáo hoá chúng sinh, như Quan Âm, Thế Chí làm Hiếp sĩ đức Phật A di Đà; Nhựt Quang, Nguyệt Quang làm Hiếp sĩ đức Phật Dược Sư; Phổ Hiền, Văn Thù làm Hiếp sĩ đức Phật Thích Ca.
Mỗi đức Phật Trung tôn có hai vị Hiếp sĩ. Phật và hai vị Hiếp sĩ hiệp thành Tam tôn vậy.”
(Đoàn Trung Còn: Phật học từ điển, quyển nhì, trang 13.
Nxb Tp/ Hồ Chí Minh 1992)
2- Hiển tông 显宗: một trong những tông phái của Phật giáo, cũng gọi là “Hiển giáo” 显教.
Dịch giả: Huỳnh Chương Hưng
Nguyên tác Trung văn trong
QUAN ÂM TIỂU BÁCH KHOA
观音小百科
Tác giả: Nhan Tố Tuệ 颜素慧
Trường Sa – Nhạc Lộc thư xã, 2002
No comments:
Post a Comment