Lý Thanh Chiếu
Phong trú trần hương hoa dĩ tận,
Nhật vãn quyện sơ đầu.
Vật thị nhân phi sự sự hưu,
Dục ngữ lệ tiên lưu.
Văn thuyết Song Khê xuân thượng hảo,
Dã nghĩ phiếm khinh châu.
Chỉ khủng Song Khê trách mãnh châu,
Tái bất động, hứa đa sầu.
武陵春-春晚
李清照
風住塵香花已盡
日晚倦梳頭
物是人非事事休
欲語淚先流
聞說雙溪春尚好
也擬泛輕舟
只恐雙溪舴艋舟
載不動、許多愁
Vũ Lăng xuân - Cuối xuân
(Dịch thơ: Chi Nguyen)
Hoa tàn gió cũng lặng hương.
Tuổi già đầu tóc cũng dường bỏ bê.
Người đây cảnh đó ủ ê.
Cất lời khóe mắt,dầm dề lệ rơi.
Suối khe phong cảnh tuyệt vời.
Thuyền nan nho nhỏ dạo chơi cho cùng.
Song Khê chèo mái ung dung.
Đa sầu đa cảm, mịt mùng đa mang ?
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Lý Thanh Chiếu 李清照 (1084-1155) hiệu Dị An cư sĩ 易安居士, người Tế Nam, Sơn Đông. Bà chẳng những là một tác gia vĩ đại trong nữ thi nhân, mà còn là một tác gia vĩ đại trong Tống từ. Bà là con gái của học giả trứ danh Lý Cách Phi. Năm 18 tuổi, bà kết hôn với con trai Tể tướng Triệu Đĩnh Chi, tức Hồ Châu thái thú Triệu Minh Thành, có thể nói là một mối nhân duyên tốt đẹp nhất thời Bắc Tống. Đôi tài tử cùng nhau xướng hoạ thơ từ, chỉnh lý văn chương, sống một đời thanh tao u nhã. Năm Tĩnh Khang 1126, quân Kim đánh Tống, bà theo chồng chạy xuống phương nam, không lâu sau trượng phu qua đời, thân gái dặm trường thực khiến người ta thương xót. Một mình phiêu bạc, vãn cảnh rất thê lương, đấy đã gây thành bối cảnh ảm đạm trong toàn bộ Sấu ngọc từ 漱玉詞 của bà.
Bà quan niệm từ khúc cần hợp luật, ý tứ thanh nhã, coi thơ và từ là hai thể loại hoàn toàn độc lập (biệt thị nhất gia). Tác phẩm của Lý Thanh Chiếu có hai thời kỳ: trước đại biến Tĩnh Khang là những từ khúc về tình yêu đôi lứa thiết tha đằm thắm. Sau khi Tống triều nam di, tác phẩm của bà là nỗi nhớ thương cố quốc, tình cảm cô liêu u tịch, phong cách kín đáo thâm trầm, xót xa cho kiếp hồng nhan bạc mệnh, hình thành phong cách riêng Lý Dị An, đẩy uyển ước từ phái lên vị trí đỉnh cao thời Lưỡng Tống. Từ của bà chỉ còn sót lại hơn 20 bài, song đều là những châu ngọc, gấm thêu.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment