Hoa Mai thử bình bài thơ ĐÈO BA DỘI để chứng minh cho suy nghĩ của mình nhé!
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm bum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng?
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Trước hết, xin giải thích nghĩa hiển ngôn cái đã:
Đèo Ba Dội hay còn gọi là đèo Tam Điệp là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa, gồm ba dốc cao nối tiếp nhau. Đèo có một cổng giống như cổng thành sơn màu đỏ. Lâu năm, cây cỏ mọc um tùm trên nóc làm tăng thêm vẻ cổ kính. Trên con đường thiên lý từ Bắc vào Trung, lữ khách bắt buộc phải qua đèo Ba Dội vì không có con đường nào khác.
Hồ Xuân Hương rất thạo niêm luật thơ Đường và bà đã có tập Lưu hương ký bằng chữ Hán. Thơ Đường đã được bà "Nôm hóa" một cách tài tình qua rất nhiều bài thơ Nôm nổi tiếng. Ấy vậy mà ở bài thơ này, câu phá đề rất lạ:
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Sao nữ sĩ không viết là: Một đèo, hai đèo, lại ba đèo? Vì viết như thế thì lộ rõ vị trí của người đếm là nhìn từ xa. Còn viết: Một đèo, một đèo, lại một đèo thì nhạc điệu câu thơ cho thấy tư thế, thậm chí cả hơi thở mệt nhọc của người đang cố leo đèo. Vừa hết dốc này, chưa kịp nghỉ ngơi cho khỏe thì dốc khác lại sừng sững trước mắt.
Lên đến đỉnh đèo, lữ khách thở phào sung sướng trước cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ hiện ra trước mắt và bật thốt lên lời khen ngợi:
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Ở những bài viết về đề tài thiên nhiên khác, Hồ Xuân Hương gọi đấng sáng tạo ra muôn vật trên mặt đất là Tạo hóa, Tạo hóa công... thì ở bài này, bà dùng đại từ phiếm chỉ "ai" và như thế là nữ sĩ đã hạ bớt quyến năng tối thượng của siêu nhiên để cho gần với con người hơn. CON NGƯỜI SÁNG TẠO ấy lại hóm hỉnh và tinh nghịch khác thường khi "khéo tạc cảnh cheo leo" của đèo Ba Dội.
Hai câu thực tả chi tiết:
Cửa son đỏ loét tùm bum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Cửa son, hòn đá... là những sự vật bình thường nhưng Cửa son đỏ loét và Hòn đá xanh rì thì đã thấp thoáng dấu ấn Xuân Hương. Thêm hai tính từ đỏ loét và lún phún đã rõ ràng là Xuân Hương chẳng lẫn bởi bà rất giỏi trong sáng tạo và chơi từ độc!
Hai câu luận tiếp tục tả cảnh đèo Ba Dội:
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Ngay cái kiểu đưa tính từ lên trước danh từ chỉ sự vật cũng thể hiện chủ ý của nữ sĩ là muốn nhấn mạnh tính chất, đặc điểm của sự vật đang hiện hữu trước mắt. Thử đảo lại theo đúng trật tự thông thường trong câu: Cành thông lắt lẻo...;Lá liễu đầm đìa... thì ý nghĩa đặc tả đã giàm đi nhiều, chưa nói tới niêm luật. Nghệ thuật đối ở cặp câu luận quá chỉnh: Lắt lẻo cành thông/ Đầm đìa lá liễu; cơn gió thốc / giọt sương gieo.
Nếu như ở cặp câu thực, hình ảnhcửa son và hòn đá là những sự vật tĩnh trở nên sinh động bởi màu đỏ loétcủa sơn và xanh rì của rêu thì ở cặp câu luận, mọi sự vật đều sống động lạ kỳ như có linh hồn: cành thông thì lắt lẻo, gió thì thốc, lá liễu thì đầm đìa, giọt sương thì gieo. Toàn là động từ, tính từ rất mạnh!
Liên tưởng bất ngờ và thú vị nằm ở hai câu kết:
Hiền nhân quân tử ai là chẳng?
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Cái này mới thật sự Hồ Xuân Hương đây! Tả thực mà ám chỉ, thanh mà tục, tục mà thanh. Ngày xưa, người dân ít khi ra khỏi địa phương mình sinh sống (trừ đám thương nhân). Còn những đệ tử của Nho giáo theo đòi nghiệp bút nghiên hay muốn học hành đỗ đạt để ra làm quan với mục đích tốt đẹp là phò vua giúp nước hay mục đích tầm thường và vinh thân phì gia thì đều phải vào Kinh ứng thí (kinh đô Huế). Muốn vào Huế thì bắt buộc phải leo qua đèo Ba Dội cheo leo, hiểm trở, cho dù mỏi gối chồn chân. Cái cười tinh nghịch, giễu cợt của Xuân Hương ngụ trong bốn chữ hiền nhân quân tử và chữ muốn. Ngày xưa, bậc vua chúa, quan lại và tầng lớp Nho sĩ thường tự xếp mình vào tầng lớp cao sang nhất của xã hội và tự xưng là hiền nhân quân tử.Muốn thành tầng lớp ấy thì bắt buộc phải học hành, thi cử tới nơi tới chốn. Vào kinh đô Huế thi Đình để được thành Trạng Nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn hoặc ông Nghè... rồi được bổ nhiệm, thăng chức quan lớn quan bé "phụ mẫu chi dân". Cái bả công danh như mùi rượu thơm đầu gió, hấp dẫn thế cơ mà! Vậy thì trèo! Khó mấy cũng trèo, mệt mấy cũng trèo!
Nhưng chữ muốn khác chữ phải xa lắm về mặt hàm ý: phải là bắt buộc, miễn cưỡng chấp nhận; còn muốn là hoàn toàn tự nguyện. Những bậc hiền nhân quân tử không hề ngán ngại cái đèo Ba Dội trong liên tưởng kia(...)mà ngược lại: Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo; sức cùng lực kiệt vẫn muốn trèo!!! Chứng tỏ "cái đèo" ấy có sức cuốn hút ghê gớm khó mà cưỡng lại!
Thơ Hồ Xuân Hương qua nét vẽ của họa sĩ Bùi Xuân Phái.
Vậy là từ sự vật này, Hồ Xuân Hượng khiến người đọc hình dung ra sự vật khác. Từ hành động trèo đèo Ba Dội sang hành động "trèo đèo" khác vốn dĩ là bản năng tự nhiên xảy ra hằng ngày của con người. Ấy thế nhưng cái đám tự xưng là hiền nhân quân tử cao quý kia tuy luôn tỏ vẻ khinh bỉ, coi thường nhưng chẳng ai là không thích, không muốn. có khi còn ham hố nữa là đằng khác. Giống như trong bài thơ Vịnh cái quạt: Yêu đêm không đủ lại yêu ngày! Khinh bỉ, coi thường mà thế đấy!
Đúng là tiếng cười châm biếm của nữ sĩ họ Hồ đau như roi quất vào mặt và tiếng cười khanh khách ấy còn vọng mãi tới bây giờ - khi đám đạo đức giả đang nhan nhản trong xã hội!
Theo: Hoa Mai
Sài Gòn 8-11-2014
No comments:
Post a Comment