Wednesday, December 7, 2022

QUÉT TUYẾT TRƯỚC SÂN NHÀ

Tại Hoa kỳ những địa phương thường có tuyết rơi vào mùa Đông đó là miền đông bắc và Trung nước Mỹ. Tại Seattle thỉnh thoảng có tuyết rơi, mỗi năm có độ một hay hai lần, có vùng có đến ba bốn lần tuyết rơi.


Thông thường khi tuyết rơi lúc đó rất đẹp, nhưng cũng rất nguy hiểm, nếu qua một thời gian một hay hai ngày khi khí trời đổi thay từ lạnh sang ấm, và từ ấm sang lạnh. Khi khí trời trời đổi từ lạnh sang ấm thì tuyết bắt đầu tan chảy thành nước, nhưng nếu sức ấm của ban ngày đó không đủ để tuyết tan thành nước hoàn toàn, đến khi đêm về nhiệt độ xuống thấp, thì số băng tuyết còn lại trở nên rắn và trơn, nếu đi không cẩn thận sẽ bị trơn trợt, cho nên mỗi người phải thấy sự nguy hiểm đó mà lo tự quét dọn khi có tuyết rơi. Vì thế mà người xưa có dạy rằng:

- Các nhân tự tảo môn tiền tuyết
Mạc vấn tha nhân ốc thượng sương.

Nghĩa là:

- Mỗi người quét tuyết trước nhà
Nhà người sương đọng hỏi ra ích gì.

Điển tích, lời dạy nầy người xưa muốn dạy chúng ta, ai cũng có lỗi lầm, những lỗi lầm của mình phải tự biết mà sửa đổi, cho xấu trở nên tốt, cho dở trở nên hay, đây là cách sống hướng thượng hướng thiện.

Tâm lý con người ai cũng có khuynh hướng che dấu lỗi lầm của chính mình, có người cũng biết đây là một thủ đoạn lừa đảo, vì đã không thành thật với bản thân. Tuy nhiên, chấp nhận con người thật của mình rất khó, nhất là khi nói về lỗi lầm của mình, vì sự đánh giá bản thân của chúng ta luôn sai lạc, hoặc là quá cao hay quá thấp. Do vậy là người phật tử có tu học, phương cách tốt nhất để có được một cái nhìn rõ ràng và thực tế về bản thân là tự soi xét chính mình với chánh niệm.

Thấy lỗi của người thật không khó, vì chúng thường làm chúng ta khó chịu, và trong trạng thái tâm tiêu cực này, chúng ta cho rằng những gì chúng ta nghĩ là đúng, và có quyền phán đoán người khác. Đó là lý do khiến chúng ta vội vả phê bình, hấp tấp lên án người khác, rồi quên rằng những suy nghĩ của mình chỉ dựa trên ý kiến riêng của chính mình. Nhưng đã được coi là ý kiến của riêng tư thì không thể nào hoàn toàn khách quan. Ở một mức độ nào đó, tất cả các quan điểm của chúng ta đều sai lạc, vì quan điểm nầy khởi nguồn từ ảo tưởng về con người của chúng ta. Những quan điểm của chúng ta có thể đúng một phần nào thôi, nhưng việc đúng một phần nào, không bao giờ đủ để làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn, và cuối cùng thì nó cũng chỉ thể hiện sự thật của một bản ngã để đối chọi lại với một bản ngã khác. Một người tin thế này, người khác tin thế kia. Người làm cách này, người khác làm cách hoàn toàn ngược lại. Những sự thật được xây dựng từ ý niệm của một bản ngã, thì không thể nào là sự thật tuyệt đối và hoàn toàn. Nhiều lắm, nó chỉ thể hiện sự lựa chọn của mỗi cá nhân.


Từ cách nhìn nầy, chúng ta bắt đầu ý thức được rằng, lỗi của người mà chúng ta quan tâm đến cũng cần được nhìn thấy nơi chính ta. Lỗi của người là phản ảnh của lỗi nơi chính ta, nếu không chúng ta đã không thể nhận biết được. Tiêu biểu như: Khi thấy ai giận dữ hay khoe khoang, chúng ta phải lập tức nhận ra những khuyết điểm này cũng có tự nơi bản thân của mình. Chúng ta nên cố gắng ghi nhận những cảm xúc này từ đâu đến và tác động của chúng như thế nào. Do vậy, phải ý thức rằng mình đang phê bình người khác, ngay tức khắc chúng ta cần phải biết là mình đã sai rồi. Những lời chỉ trích của chúng ta sẽ không có lợi ích gì. Suy cho cùng, chắc chắn không bao giờ người kia chịu sửa đổi khi bị bới móc chỉ trích. Là phật tử, chúng ta phải biết, nói xấu người khác luôn luôn có hại, phần lớn là cho mình. Chúng ta cũng phải biết người khác cũng có thể khó chịu với chúng ta, và nếu chúng ta phản ứng bằng sự giận dữ, hờn oán, thì chúng ta cũng có thể rơi vào vòng lẫn quẩn của sự sân hận dữ dội hơn, và cuối cùng là chúng ta mất bạn hay mất người thân.

Như vậy việc chỉ trích không có lợi, nhưng nhận lỗi thì trái lại rất tốt đẹp. Ví dụ, nếu chúng ta thấy một người nào đó không có chánh niệm, đang sân hận si mê, lúc đó thái độ đúng đắn của chúng ta bằng cách tự hỏi:

- Không biết lúc này tôi đang có chánh niệm không?

Đó là phản ứng đáng kể duy nhất. Nếu chúng ta quan sát thấy một ai đó lầm lỗi, và muốn chỉ trích, chúng ta nên tự nhắc mình là phê bình hoặc lên án người khác sẽ có hại cho mình. Nhất là khi để cho sự phê bình, chỉ trích lập đi lập lại và trở thành một thói quen, chúng ta đã khắc sâu những tánh xấu trong nội tâm, từ đó càng ngày càng làm cho con người của mình trở nên tệ hơn.

Tâm lý của con người chắc chắn ai cũng biết, nếu một người nào đó có tánh hay phê bình, chỉ trích, và khi nghe người kia cứ nhắc đi nhắc lại hoài, đương nhiên chúng ta sẽ bực mình. Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận trong việc chỉ trích, và tránh tạo thói quen xấu nơi kẻ khác. Chúng ta cũng nên ý thức rằng, cứ mỗi khi chỉ trích ai, chúng ta dần dần tạo cho mình một thói quen xấu.


Ngược lại, nếu nhân cơ hội đó chúng ta ghi nhận chính xác điều gì đang xảy ra với người khác, chúng ta có thể sử dụng sự nhận xét về các hành vi của họ như một tấm gương cho bản thân chúng ta. Đây là một tấm gương rất giá trị, vì tuy rằng nó không thể cho chúng ta thấy hình dáng thể chất của mình, nhưng nó có thể giúp cho chúng ta dấn thân vào một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều của việc tự tìm hiểu và tự biết mình. Cách thực tập này khó, nhưng khi cố gắng cũng sẽ làm được, và khi làm được lúc đó chúng ta mới thấy con người thật của mình không những vì chúng ta thiếu nhận thức, nhưng chính là vì chúng ta thích như vậy, và chúng ta thường không muốn biết sự thật. Chúng ta lo lắng tìm cách lẩn tránh nó vì chúng ta sợ sự thật sẽ làm đau lòng. Đây là hai trong số tám hiện tượng phổ quát được nhắc đến đó là:

- Khen và chê trách.

Bận tâm để được khen và tránh khi bị chê trách rõ ràng là hơi lố bịch, nhưng chúng ta chưa bao giờ thật sự ý thức được điều đó. Thêm nữa, hai điều này chính là lý do khiến chúng ta miễn cưỡng trong việc tự hiểu mình:

- Chúng ta sợ sẽ bị người khác tìm ra những điều về bản thân mà chúng ta có thể phải chịu sự chê trách.

Do vậy mà chúng ta vẫn thích mang vải che mắt và tránh cái nhìn toàn diện của người khác về bản thân của mình. Tuy nhiên là phật tử chúng ta tu học phải ghi nhận, sự sợ bị khiển trách có thể được giải quyết bằng công thức:

- Chấp nhận,
- Không trách móc,
- Sửa đổi.


Bước đầu tiên là ý thức được sự sợ bị khiển trách, sợ sự bất đồng ý kiến, thiếu hỗ trợ, và sợ không được quý trọng. Sự sợ hãi này ẩn chứa trong tiềm thức của mỗi người chúng ta, và nó có thể dấy lên trong cơn hoảng hốt chỉ vì chúng ta không muốn chịu sự khiển trách. Ngược lại, chúng ta luôn sẵn sàng trách người khác, với lòng tin rằng điều đó không làm hại đến mình. Nhưng chúng ta đã lầm vì đã để cho tâm tư bất ổn chế ngự, chính chúng ta mới là người đau khổ.

Trên thực tế chúng ta ai cũng muốn được xưng tụng, khen ngợi. Mọi việc chúng ta làm đều hướng về mục đích này, nhưng nếu quá lo lắng với sự mong muốn này, chúng ta sẽ bị sự sợ hãi chế ngự, khiến chúng ta không có cái nhìn bình thản. Nói cách khác, chúng ta sợ bị chỉ trích. Để có thể loại bỏ sự sợ hãi này, chúng ta nên bắt đầu bằng cách tự mình cố gắng không nên phê phán, vì biết rằng những gì mình làm sẽ quay lại với chính mình.

Bước đầu tiên tức là chấp nhận sẽ giúp cho chúng ta hiểu biết về luật nhân quả, là những điều có thể thấy trong môi trường sống của chúng ta, điều nầy không đủ để giúp chúng ta vượt qua tất cả sợ hãi.

Bước thứ hai liên hệ đến sự hiểu biết về bản chất của sự sợ hãi. Trong cuộc tìm sự chấp nhận người khác, chúng ta trở thành nô lệ của môi trường chung quanh mình. Ngày nào môi trường này còn không được như ý mình, hay không làm cho mình cảm thấy thoải mái, thì chúng ta sẽ còn tiếp tục tìm kiếm sự chấp nhận người khác. Một thái độ như thế sẽ khiến cuộc sống của chúng ta vô cùng khó khăn, và ngăn trở sự tiến đến việc tự biết mình.

Thứ ba là sửa đổi. Ngược lại, sự tự biết mình thật trung thực rất cần thiết để giúp chúng ta buông xả, kể cả buông xả sự lo sợ bị chê trách. Chúng ta chỉ có thể buông xả những gì tự mình đã nhận thức rốt ráo, cũng không cần thiết phải hoán chuyển sự sợ hãi bị chê trách thành sự sợ tự biết mình. Việc chúng ta có thể buông xả sau khi đã hiểu được nó, không có nghĩa là chúng ta là người hèn hạ thấp kém. Nó chỉ có nghĩa là sự ích kỷ chúng ta không còn là quyền lực tối ưu trong các hành xử của chúng ta. Phải nên nhớ rằng, mọi việc không nhất thiết phải luôn theo như ý mình. Thay vào đó, chúng ta dành một khoảng không gian bên trong chúng ta cho những gì thật sự đúng. Chỉ cần nhìn vào khía cạnh của vô thường:

- Tất cả những gì đến rồi phải qua đi, không có gì là trường cửu.

Dĩ nhiên, tính chất luôn biến đổi của sự vật đôi khi trở thành lý do cho sự chê trách, nhất là khi người khác làm cho mình thất vọng vì lỗi hẹn, hay không làm xong việc chúng ta giao phó. Nhưng khi chúng ta biết tất cả những hiện hữu có điều kiện đều không toàn hảo. Cho nên không nên trách móc. Đây là lý do tại sao chúng ta nên nhìn lại mình mà không sợ hãi, và xét xem những gì chúng ta không thích ở người, chẳng hạn như:

- Chúng ta không thích thói xấu của họ, thì chúng ta nên tự xét lại các thói xấu của mình.

- Chúng ta không thích tính luôn muốn được chú ý tới của họ, bằng cách này, chúng ta sẽ ngày càng biết rõ mình hơn.

Và phải tự hỏi:

- Có lẽ mình không phải là người tốt như mình nghĩ, và nếu mình không được tốt như vậy, người khác sẽ chê trách mình.

Chúng ta thấy rất sợ hãi vì sự đe dọa này, như là bị roi quất vào người, khiến thân xác đau đớn. Chúng ta muốn rằng mọi việc phải thật đúng, thật toàn hảo. Nhưng trong vũ trụ này, vạn vật tiến hành theo lề lối riêng của nó, và cứ liên tục như vậy, chẳng hạn như:

- Sông thì nước chảy, nếu chúng ta ngăn chúng lại sẽ gây ra lũ lụt.

Cuộc sống tiếp diễn, khi ngày này hết thì một ngày mới lại bắt đầu. Do vậy nếu chúng ta đã tự đặt mình ngoài dòng luân lưu của vạn vật, thì cũng không cần phải nghĩ đến việc phải mang vào dòng luân lưu này tất cả những gì toàn hảo như ý chúng ta mong muốn. Điều này có thể áp dụng trong việc tu tập, cũng như với bất cứ chuyện gì khác. Dầu chúng ta có thể đang tụng kinh, niệm Phật, hay ngồi lặng yên trên gối thiền, không bị ai nói gì hay phê phán gì, nhưng chúng ta vẫn đang tạo áp lực cho bản thân, khiến trở ngại việc tu tập. Nếu nghĩ rằng việc tu tập phải toàn hảo, thì chúng ta sẽ không thể tu tập mà luôn đương đầu với lo âu. Như thế thì không lợi ích khi mong muốn làm tất cả mọi việc toàn hảo, chúng ta chỉ có thể cố gắng làm hết sức mình. Chúng ta cũng sẽ vui hơn nếu bỏ ước muốn được người khác biết ơn. Dĩ nhiên, nếu có ai tỏ lòng biết ơn, cảm kích, hay hoan hỷ vì những gì chúng ta đã làm, thì điều đó cũng là điều tốt, nhưng là tốt cho họ.

Chúng ta nên nhớ rằng, chính mình cũng luôn thay đổi. Năng lượng và năng lực của chúng ta thường lên xuống liên tục. Điều này cũng đúng trong việc tu tập. Đôi khi tâm trí chúng ta có thể tập trung rất nhanh, nhưng những lúc khác, có thể vì phải gạn bỏ quá nhiều tư tưởng nên phải mất cả giờ đồng hồ mới tìm được sự tĩnh lặng. Khả năng tập trung hay phân tán tư tưởng này, thường do chúng ta liên tưởng đến cái ngã tự gây ra cho mình.

Tất cả cũng vì tâm chúng ta không ngừng thay đổi. Nếu chúng ta có thể thấy mọi thứ biến chuyển trong ta như thế nào, thì chúng ta sẽ có thể kết luận ở người khác cũng như thế. Nếu ai đó cư xử không phải phép, chúng ta phải mừng rằng họ sẽ thay đổi, hy vọng là tốt hơn. Vậy thì, càng chánh niệm về lẽ vô thường nhất là sự vô thường của những hành động xấu, chúng ta sẽ thấy dễ buông bỏ tánh ưa nhìn tuyết trên mái nhà người ta, mà không lo quét tuyết trước sân nhà của mình, nghĩa là không còn tánh vạch lá tìm sâu, tìm lỗi của người nữa.

Như đã thấy, những gì chúng ta chê trách nhất ở người, là chứng tính mà chúng ta cũng ít thích nhất nơi bản thân. Chúng ta cũng đã thấy rằng nếu thỉnh thoảng chúng ta bỏ thì giờ để quán sát, tìm hiểu các thói xấu này, thì chúng ta có thể nỗ lực khắc phục được chúng. Tuy nhiên, trong tiến trình này, chúng ta có thể phải chịu sự chỉ trích khắc khe, vì trong lúc những hành vi của người mà chúng ta đang quan sát, có thể giống hành vi của chính ta, người mà chúng ta đang chỉ trích có thể không nỗ lực để cải thiện như chúng ta. Một thái độ như vậy tạo ra rất nhiều va chạm trong sự liên hệ giữa người với người, điều này không nhất thiết được biểu lộ ra ngoài, dầu vậy vẫn chất chứa cảm giác không tán thành, chống đối. Chúng ta nên luôn luôn cố gắng chấp nhận người khác, và cố kiềm chế sự phê bình của họ. Điều này cũng ứng dụng với chính mình nữa. Chúng ta không nên bắt bẻ, bới móc lỗi người, mà hãy luôn tự nhắc mình nhớ đến công thức:

- Chấp nhận, không lên án, và sửa đổi.

Trong phần đầu soi sáng để thấu rõ được bản thân là phần khó nhất. Phần thứ hai không lên án cũng không dễ thực hiện, vì tâm chúng ta tự động có phản ứng đối với bất cứ cảm giác khó chịu nào. Tất cả những gì chúng ta không thích về mình, tất cả những gì chúng ta không thể chấp nhận, và muốn thay đổi tạo ra những cảm giác khó chịu, và tự lên án, rồi con đường đi đến tự giác có thể biến mất khỏi tầm nhìn của chúng ta.


Sự thấu hiểu về vô thường giúp ta dễ dàng quán chiếu bản thân. Khi đã rõ rằng mọi vật ta đang thấy trước mắt biến mất đi ngay lúc đó, thì việc tránh không tự trách mình lên án người sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tất cả mọi vật đến, sẽ đi và không trở lại nữa, và không có gì đến sau đó sẽ giống như cái đến trước, dù chúng có vẻ giống nhau. Bằng cách quán sát vô thường như thế, chúng ta có thể bắt đầu sẵn sàng chấp nhận bản thân và người khác hơn.

Nhận thức được bản chất thật sự của những gì mà chúng ta chê trách ở người khác sẽ giúp chúng ta có cái nhìn mới mẻ về bản thân của chính mình. Chúng ta dứt bỏ được những gì làm mình khó chịu không phải bằng cách quay lưng lại với người có các lỗi này, nhưng bằng cách không còn bắt người khác chịu trách nhiệm vì họ không như ý chúng ta muốn.

Ý thức được rằng khổ đau đến là do từ những phản ứng khó chịu của mình, trong đó có cả sự sợ bị chỉ trích, sẽ giúp chúng ta dễ kiềm chế việc phê bình người khác. Chúng ta có thể thấy rõ, hầu như mọi người đều có những nỗi bất an khi không được ủng hộ.

Thật sự chúng ta khó biết người khác nhận xét về mình là đúng hay không đúng. Vì chúng ta chưa bao giờ thức tỉnh để biết rằng tất cả đều bị kẹt trong cái bẫy ảo tưởng, cho nên nó khiến cho chúng ta không thể nào có được một quan điểm thật sự vô tư. Ảo tưởng đó là tất cả chúng ta đều là những cá thể riêng biệt, và nếu đủ khôn ngoan để sắp xếp mọi thứ đúng cách, thì chúng ta có thể có những sự dễ chịu riêng.

Tất cả mọi người đều sống với ảo tưởng này, khiến cho mọi người khao khát hiện hữu và lo sợ bị hủy diệt. Do vậy chúng ta phải có phương pháp để người khác xác nhận sự hiện hữu của chúng ta. Sự sợ hãi không chỉ giới hạn trong sự sợ cho sự hiện hữu của thân xác, mà bao gồm cả sự hiện hữu của cảm xúc, sự xác định của bản ngã. Nhưng nếu ý thức được sự sợ hãi này, chúng ta cũng có thể phát triển một sự cảm thông sâu sắc đối với người khác, vì tất cả nhân loại ai cũng đều khát khao sự sinh tồn, vì thế mà lại làm phát sinh nỗi khổ đau lớn nhất của kiếp người.

Một khi nỗi sợ hãi với gốc rễ đã ăn sâu này làm cho con người không thể hoàn toàn được mãn nguyện, và một khi đã hiểu được sự tương quan này, chúng ta sẽ không còn đi tìm sự mãn nguyện một cách sai lầm nữa. Thay vào đó, chúng ta sẽ cố gắng chuyển hóa những khó khăn của chính bản thân do ngã tưởng gây ra. Tuy nhiên, trước hết chúng ta phải nhận diện được nỗi lo sợ của việc tự soi xét một cách chân thực, cùng với nỗi lo sợ bị người khác chê trách, và ý muốn chỉ trích lại, tất cả là do sự thúc đẩy của nhu cầu muốn tâng bốc bản thân. Vì thế mà chúng ta có khuynh hướng kết tội người khác, thì chúng ta mới cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu chấp nhận rằng tất cả chúng ta ai cũng có khiếm khuyết, thì chúng ta sẽ không còn lên án lẫn nhau.

Nhận thức này đưa chúng ta tiến xa hơn đến sự hiểu biết về những thiếu sót cơ bản của bản thân. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được sự thiếu sót này, thì chúng ta mới cảm thấy mình cần thôi thúc phải vượt ra ngoài sự lẫn quẩn này, dĩ nhiên không nói về thể chất, nhưng trong chiều hướng để buông bỏ được bản ngã. Những khó khăn chúng ta đã vượt qua sẽ không còn quấy nhiễu nữa, và chúng ta sẽ đạt được tri kiến về những vấn đề còn đang gây khó khăn cho chúng ta. Chúng ta sẽ có thể thấy là mình chưa chuyển đổi được các vấn đề khi vẫn còn phiền nhiễu chúng ta. Chẳng hạn như:

- Khi đọc những tin tức không hay và ngay lập tức cảm thấy trong lòng đầy bực tức.

Như thế chúng ta có thể tự biết rằng mình chưa bỏ hết được những tham lam, sân hận của mình. Thế giới vẫn còn đầy bao biến động, nhưng bực bội, kết tội chỉ cho thấy là sân hận vẫn còn đầy trong ta. Chúng ta sinh ra với sáu gốc rễ: Ba rễ tốt và ba rễ xấu, thế nên việc lên án bản thân hay người khác cũng chẳng có lợi lạc gì. Vấn đề là nhận thức được bản chất của những gốc rễ này, và tự nguyện hỗ trợ cho những rễ tốt phát triển, đồng thời làm giảm bớt các gốc rễ xấu.

Các gốc rễ xấu là:

- Tham, sân, và si

Và ba gốc rễ tốt đó là:

- Thiện bố thí,
- Tình yêu thương vô điều kiện,
- Và trí tuệ.

Thực ra, chúng ta biết rất rõ ràng phải thực hành khi nào, ở đâu và như thế nào. Ngôn từ và giới luật, tự chúng không bao giờ đủ cả, nhưng chúng ta đã có đủ trí tuệ để cảm nhận được sự thật khi nghe đến nó, và biết có thể tìm được nó ở đâu.


Dứt bỏ tham muốn là một cụm từ khác để chỉ sự hoàn toàn thanh lọc. Có nghĩa là tham sân không còn có mặt, và khi tham sân không còn thì chúng ta đã đến rất gần với sự giác ngộ hoàn toàn. Đến lúc đó, theo những lời Đức Phật dạy rất rõ ràng, là chúng ta cần phải nỗ lực luyện tâm, vì khi nào chúng ta còn chê trách, hay còn nhìn tuyết trên mái nhà người khác thì chúng ta sẽ không ý thức được những động cơ thật sự của mình và không thể sửa đổi cho chính mình.

Đây là lý do khiến cho việc luôn luôn quan sát một cách chánh niệm các phản ứng tình cảm của mình trở thành rất quan trọng. Giữ chánh niệm không ngừng, khi xảy ra các cách hành xử, chúng ta không thể buông bỏ mà không trách nhiệm. Một khi chúng ta đã nhận biết được các phản ứng này, chúng ta cũng nhận thấy nó gây ra những bồn chồn, và do đó rất độc hại cho sự an tĩnh mà chúng ta cần có để hành trì tu tập.

Trong đời sống hằng ngày, thật không dễ gì thấy được sự khác biệt giữa một tâm tĩnh lặng và một tâm lăng xăng, nhưng khi thực hành chánh niệm qua một thời gian, sự khác biệt này sẽ rõ ràng hơn. Chúng ta sẽ thấy rằng những phản ứng của chúng ta không phải chỉ có khi bị chỉ trích mà còn có mặt khi có tham ái, sân hận, và sợ hãi tham dự.

Theo Đức Phật, dục vọng của chúng ta tăng lên khi thấy lỗi của người khác, và tự cho phép mình có những phản ứng chống đối, vì điều này củng cố thêm tâm phân biệt của chúng ta, và tâm này càng làm cho ngã tưởng thêm sâu dày. Ngược lại, các mối liên hệ của chúng ta với người khác, cũng có thể giúp chúng ta có được sự hiểu biết sâu sắc hơn, nếu ý thức rằng người kia cũng phải tuân theo luật vô thường, khổ đau, và bất như ý như bản thân chúng ta. Thực ra, chúng ta nên xem các tương quan với người khác như là những cơ hội để tu tập, và nếu biết sử dụng sự hiểu biết như thế, thì chúng ta sẽ được những lợi lạc và đợc coi đây là một hệ thống giáo dục hàng đầu. Thật vậy, chúng ta có thể xem toàn bộ cuộc đời của mình là một cơ hội học hỏi liên tục. Tất cả các mối liên hệ có thể là phương tiện để huấn luyện chúng ta trong tình thương yêu, và là một cơ hội tuyệt hảo để hiểu biết về bản thân của chính mình.

Nếu chúng ta xua đuổi hay trách móc, lên án bất cứ ai, thì tâm chúng ta sẽ không an. Ngay khi chúng ta vừa buông bỏ cái cảm giác của sự khắt khe, niềm an lạc sẽ trở lại với tâm. Sự buông xả thật sự không dễ, nhưng có nhiều sự hiểu biết nhỏ có thể giúp chúng ta trên con đường tiến đến đó. Ví dụ như:

- Sự hiểu biết rằng chính ta đã tạo ra sự bất an này, và chính nó làm hại chúng ta.

Nếu tiếp tục suy gẫm về điều nầy, thì chúng ta sẽ bắt đầu an lạc. Tất cả mọi vật đều ở trong tiến trình phân hủy không ngừng nghỉ, hoại diệt, rồi lại tái tạo. Chính vì sự chuyển động không ngừng của mọi vật mà không có gì có thể hoàn toàn làm cho chúng ta vừa ý. Một khi nhận thức được lý vô thường trong mọi vật, chúng ta sẽ không còn khổ đau vì nó. Xét cho cùng, chúng ta chỉ là một cá nhân trong cộng đồng nhân loại, mà mỗi chúng ta ai cũng bị luật vô thường chi phối. Do vậy chúng ta có thể áp dụng những nguyên tắc tổng quát của vô thường và khổ cho bất cứ tình huống nào. Đây là bước kế tiếp trên con đường dẫn đến sự tỉnh thức, và chúng ta phải quan sát những tính chất này trong tất cả mọi vật chung quanh chúng ta. Khi có sự quán sát thì chúng ta sẽ thấy không có gì là hoàn toàn như ý, và tất cả là vô thường.

Khi quán sát như thế, thì không thể có ngoại lệ nào, mà tất cả phải được kể đến. Chúng ta không thể nói:

- Tôi đã trải qua khổ đau, nhưng người làm tôi quá đau khổ thì chẳng ra gì. Thật ra, người đó cũng chiêm nghiệm khổ đau nhiều như chúng ta. Cứ thế dần dần, bằng cách này chúng ta phát triển một cảm giác là cuộc đời là một tổng thể, không chỉ gồm những hiện tượng cá thể, có như thế thì chúng ta có thể sống hài hoà với nhau.


Một khi mà mỗi cá nhân chúng ta phản ứng bằng sự sợ hãi, tổng số sợ hãi trong đời sống tăng lên. Một khi mà mỗi cá nhân chúng ta chất chứa uế nhiễm, không hằng thuận, hay trách móc, lên án thì toàn thể tổng số của uế nhiễm tăng lên. Trái lại, nếu chúng ta hiểu vô thường và khổ, sự hiểu biết này làm tăng thêm toàn thể tổng số trí tuệ thế gian. Nếu chúng ta thấy rõ rằng mỗi cá nhân sẽ tạo thành một tổng thể của xã hội, thì chúng ta sẽ sẵn sàng để kiến tạo hoà bình hơn mà không còn thấy sự phân biệt giữa mọi người mọi vật.

Mỗi việc làm, hay một ý nghĩ tốt thì sẽ góp thêm cái thiện cho cuộc đời, vì tất cả mọi người chúng ta là cuộc đời. Cảm xúc, tư tưởng, ngôn từ, và hành động của chúng ta là yếu tố cấu tạo nên thế giới này. Trên căn bản này, thật là thiển cận khi chỉ trích hay phê bình, vì làm như vậy là đã quên đi những đặc tính căn bản hay những dấu hiệu của sự hiện hữu, đó là vô thường, vô ngã, và khổ. Chúng ta tu tập càng lâu, và càng thâm nhập, suy gẫm sâu xa hơn về những sự thật phổ quát của các Pháp, thì chúng ta càng thấy dễ chánh niệm hơn về những đặc tính của sự hiện hữu, và dễ áp dụng những thực nghiệm đó vào đời sống hằng ngày.

Dựa trên chân lý tuyệt đối, thì không có những thực thể tách biệt, mà tất cả mọi vật là do duyên khởi. Nhưng trên bình diện tương đối mọi người đều mang trách nhiệm phải phát khởi điều thiện. Sợ hãi là một đặc tính có thể truy nguyên từ lòng tham muốn, là những cá thể với bản chất cố định, biệt lập, và muốn có một đời sống luôn vừa ý mình. Cả hai tư tưởng nầy đều không thực tế, vì chúng ta không thể nào sống mãi trong cuộc đời này, và mọi việc không thể nào luôn luôn được như ý mình muốn. Do đó sợ hãi phát sinh từ cả hai mục tiêu đó và làm cản trở con đường an tịnh của chúng ta.

Một khi chúng ta đã chế ngự được sự sợ hãi này, bước kế đến là ý thức rằng chúng ta đã và đang theo đuổi những điều không tưởng. Rồi thì điều mơ ước, hay đúng ra là sự thôi thúc, được vượt lên mức độ hiện hữu của con người phàm phu này sẽ phát triển. Sự sợ hãi phát sinh trong tiến trình này cần được từ bỏ, không phải chỉ một lần mà nhiều lần, khi bất cứ lúc nào chúng ta có cảm giác là bản ngã của mình bị đe dọa.

Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho thói tìm lỗi của chính chúng ta và người khác là sự chứng nghiệm được sự thật về vô thường và khổ. Vì thế chúng ta nên tự bảo mình:

- Tôi không nên tìm lỗi lầm người khác.

Thật sự câu nói nầy không đủ, vì chúng ta có lẽ đã biết điều này lâu lắm rồi. Điều khó khăn là chúng ta thường hay bị lôi cuốn vào những chuyện thị phi, cho nên chúng ta quên đi những gì mà chúng ta hiểu biết. Nói đến điều này, có lẽ chỉ có thái độ dấn thân với trí tuệ, mục tiêu chính của việc tu tập, mới có thể giúp được chúng ta không còn tánh bới vết tìm lông.

Nói tóm lại, muốn tránh tình trạng tìm kiếm lỗi lần người khác, tu tập được coi như là phương cách giúp chúng ta chiêm nghiệm bản thân một cách sâu sắc hơn, và đó là lý do tại sao tu tập cần được hỗ trợ bằng sự trầm tư, quán chiếu, để làm tăng trưởng sự tự biết mình và thấy được:

- Chúng ta đã nuôi dưỡng sự sợ hãi trong chúng ta đến mức độ nào?

- Chúng ta sợ đánh mất chính mình đến đâu?


Sự tự soi xét như vậy sẽ đưa chúng ta đến gần với sự thật hơn. Vấn đề quan trọng ở đây không phải là chúng ta có thể buông xả sự sợ hãi ngay tức khắc hay không, mà là chúng ta có thể đạt được những hiểu biết mới mẻ qua sự tự quán chiếu là một điều cần phải thực tập.

Chúng ta có thể học nhiều điều từ lỗi lầm của người khác để có thể hiểu được rất nhiều về bản thân chính mình, khi được như vậy thì chúng ta sẽ cảm thấy sự tương quan, đoàn kết với mọi người, và có thể coi họ là anh chị em của mình rất dễ. Trái lại, khi nào chúng ta còn tự tách biệt và quá chú trọng đến những sự khác biệt, thì lòng tham, sân sẽ càng lớn mạnh thêm, và như vậy khó mà có thể duy trì một tổ chức, một cộng đồng trong sự hoà bình và thịnh vượng. Do vậy mà chúng ta phải luôn luôn nhớ câu:

- Các nhân tự tảo môn tiền tuyết
Mạc vấn tha nhân ốc thượng sương.

Nghĩa là:

- Mỗi người quét tuyết trước nhà
Nhà người sương đọng hỏi ra ích gì.

Nguyên Châu / Theo: Tập San Dược Sư

No comments: