Mô ngư nhi - Nhạn khâu
(Tác giả: Nguyên Hiếu Vấn)
Vấn thế gian tình thị hà vật,
Trực giao sinh tử tương hứa?
Thiên nam địa bắc song phi khách,
Lão sí kỷ hồi hàn thử.
Hoan lạc thú,
Ly biệt khổ,
Tựu trung cánh hữu si nhi nữ.
Quân ưng hữu ngữ,
Diểu vạn lý tằng vân.
Thiên sơn mộ tuyết,
Chích ảnh hướng thuỳ khứ?
Hoành Phần lộ,
Tịch mịch đương niên tiêu cổ,
Hoang yên y cựu bình sở.
"Chiêu hồn" Sở ta hà ta cập,
"Sơn quỷ" ám đề phong vũ.
Thiên dã đố,
Vị tín dữ,
Oanh nhi yến tử câu hoàng thổ.
Thiên sầu vạn cổ,
Vi lưu đãi tao nhân.
Cuồng ca thống ẩm,
Lai phỏng nhạn khâu xứ.
摸魚兒-雁丘 (元好問)
問世間、情是何物,
直教生死相許?
天南地北雙飛客,
老翅幾回寒暑。
歡樂趣、
離別苦,
就中更有痴兒女。
君應有語,
渺萬里層雲。
千山暮雪,
隻影向誰去?
橫汾路、
寂寞當年蕭鼓,
荒煙依舊平楚。
招魂楚些何嗟及,
山鬼暗啼風雨。
天也妒、
未信與,
鶯兒燕子俱黃土。
千愁萬古,
為留待騷人。
狂歌痛飲,
來訪雁丘處。
Dịch nghĩa:
Hỏi thế gian, tình là vật gì,
Mà khiến (những chú chim nhạn này) sống chết hẹn thề nhau?
Dù trời nam hay đất bắc, hai kẻ vẫn luôn sát cánh bên nhau,
Đã trải qua biết bao lúc cùng nhau ấm lạnh.
Niềm vui thú khi hoan lạc,
Nỗi khổ lúc chia lìa,
Chung quy đều chỉ vì có tình si như người nam si tình kẻ nữ.
Lời người phải nói ra đi,
Nhưng đã xa mịt mù trên tầng mây vạn dặm (tức đã chết).
Từ nay ta sớm chiều qua ngàn non tuyết,
Bóng lẻ này biết về đâu cùng ai?
Trên dải sông Phần,
Tiếng nhạc trống, tiêu rộn rã năm xưa nay đã thành tịch mịch,
Rừng cây trải rộng, khói hoang xen lẫn.
Bài "Chiêu hồn" cất lên đâu còn kịp,
Khúc "Sơn quỷ" cũng ảm đạm trong mưa gió.
Trời cũng biết ghen tị,
Há vẫn còn chưa tin ư,
Đôi kẻ yến oanh rồi cũng trở thành nấm đất.
Ngàn mối sầu đành để lưu truyền tới vạn đời sau,
Để đối đãi những tao nhân mặc khách.
(Sẽ có người) hát trong điên cuồng, uống rượu trong đau khổ,
Tới tìm thăm lại nấm mộ chim nhạn này.
Lời dẫn: Thái Hoà ngũ niên Ất Sửu tuế, phó thí Tinh Châu, đạo phùng bộ nhạn giả vân: "Kim nhật hoạch nhất nhạn, sát chi hĩ. Kỳ thoát võng giả bi minh bất năng khứ, cánh tự đầu ư địa nhi tử." Dư nhân mãi đắc chi, táng chi Phần thuỷ chi thượng, luỹ thạch vi chí, hiệu viết nhạn khâu. Thì đồng hành giả đa vi phú thi, dư diệc hữu "Nhạn khâu từ". Cựu sở tác vô cung thương, kim cải định chi. 泰和五年乙丑歲,赴試并州,道逢捕雁者,云:『今日獲一雁,殺之矣。其脫網者悲鳴不能去,竟自投於地而死』。予因買得之,葬之汾水之上,累石為識,號曰雁丘。時同行者多為賦詩,予亦有〈雁丘詞〉。舊所作無宮商,今改定之。 (Năm Ất Sửu Thái Hoà thứ năm, tới Tinh Châu thi, đường gặp người bắt nhạn nói: "Hôm nay bắt được một con nhạn, đem giết. Con thoát được lưới buồn hót không chịu đi, cuối cùng lao xuống đất mà chết." Tôi bèn mua lấy, đem chôn trên sông Phần, đắp đá thành mộ chí, gọi là mồ chim nhạn. Khi đó nhiều người cùng đi làm thơ phú, tôi cũng làm bài "Nhạn khâu từ". Bài cũ đó không theo nhạc điệu, nay sửa lại.)
Mộ chim nhạn
(Dịch thơ: Điệp Luyến Hoa)
Thế gian, tình nghĩa là gì?
Khiến người sinh tử hẹn vì có nhau!
Trời nam đất bắc cách đâu,
Rã rời mưa nắng, bạn bầu mấy khi.
Gặp nhau vui thú mấy thì,
Mà nay cách biệt chia ly nỗi đời.
Phải lòng nhi nữ ấy thôi,
Lời đây muốn ngỏ mà người cách xa.
Nghìn năm núi tuyết bao la,
Thân này lẻ bóng biết là về đâu.
Sông Phần nước chảy rầu rầu,
Mịt mờ trống gõ nơi đâu năm nào.
Khói hoang dẹp Sở khi nao,
Gọi hồn người cũ, biết đâu còn vừa?
Núi này quỷ khóc trong mưa,
Trời kia đã ghét, phải chừa lòng tin.
Yến oanh rồi cũng cỏ vun,
Cho sầu mãi đợi mỏi mòn người thơ.
Uống cuồng cất khúc ngẩn ngơ,
Đến bên thăm lại nấm mồ nhạn đây.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment