Thanh thanh hà biên thảo,
Miên miên tư viễn đạo.
Viễn đạo bất khả tư,
Túc tích mộng kiến chi.
Mộng kiến tại ngã bàng,
Hốt giác tại tha hương.
Tha hương các dị huyện,
Triển chuyển bất khả kiến.
Khô tang tri thiên phong,
Hải thuỷ tri thiên hàn.
Nhập môn các tự mị,
Thuỳ khẳng tương vi ngôn!
Khách tòng viễn phương lai,
Di ngã song lý ngư.
Hô nhi phanh lý ngư,
Trung hữu xích tố thư.
Trường quỵ độc tố thư,
Thư trung cánh hà như.
Thượng hữu gia xan thực,
Hạ hữu trường tương ức!
飲馬長城窟行
青青河邊草
綿綿思遠道
遠道不可思
宿昔夢見之
夢見在我傍
忽覺在他鄉
他鄉各異縣
展轉不可見
枯桑知天風
海水知天寒
入門各自媚
誰肯相為言
客從遠方來
遺我雙鯉魚
呼兒烹鯉魚
中有尺素書
長跪讀素書
書中竟何如
上有加餐食
下有長相憶
Cho ngựa uống ở Trường Thành
(Dịch tho: Điệp Luyến Hoa)
Xanh xanh cỏ trên bãi,
Miên man nhớ góc trời.
Xa xôi nhớ không tới,
Sớm tối mộng gặp người.
Trong mộng người như cạnh,
Tỉnh dậy đã xa rồi.
Trăn trở khôn cách gặp,
Hai kẻ cách đôi nơi.
Dâu khô hay gió lạnh,
Nước biển biết khí trời.
Kẻ về vui chồng vợ,
An ủi nào có ai!
Khách từ phương xa tới,
Tặng cá chép một đôi.
Gọi trẻ ra mổ cá,
Trong một tấm thư dài.
Mở thư ngồi đọc mãi,
Như xưa, vẫn những lời.
Trên đề tự chăm sóc,
Dưới viết nhớ mong hoài.
Ghi chú:
Bài thơ này trong Văn tuyển ghi là nhạc phủ cổ từ, Ngọc đài tân vịnh đề là Thái Ung làm, Nhạc phủ thi tập xếp vào Tương họa ca từ.
Về xuất xứ và ý nghĩa của đề mục, Văn tuyển viết: Trường Thành xây từ đời Tần để phòng bị giặc Hồ, bên dưới có hang suối có thể cho ngựa uống. Cho ngựa uống (ẩm mã) và Trường Thành là sinh hoạt thường nhật của lính thú thời xưa, đề mục phiếm chỉ nỗi lòng tương tư của lính thú và vợ con nơi quê nhà.
Nội dung bài thơ miêu tả nỗi nhớ của người vợ đối với chồng biên thú, lời lẽ và ý tứ đều khúc chiết. Mở đầu là cảnh người chinh phụ nhìn cỏ bãi miên man vô hạn rồi liên tưởng tới nỗi nhớ của mình cũng dằng dặc không dứt như vậy. Phần cuối chuyển sang việc nhận được thư của chồng, vẫn những lời dặn dò quan tâm không dứt và nỗi nhớ nhung da diết, lời lẽ nửa hư nửa thực thể hiện lòng mong mỏi và hoài tưởng. Mở đầu và kết thúc của bài thơ đều miên man vô tận.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Thái Ung 蔡邕 (132-192) tự là Bá Giai 伯喈 người Trần Lưu (nay thuộc tỉnh Hà Nam) đời Đông Hán. Đời Hán Hiến Đế 漢獻帝 ông làm Tả trung lang tướng nên còn thường được gọi là Thái Lang Trung. Ông là người bác học đa tài, giỏi từ phú, tản văn, thư pháp, tinh thông âm nhạc, thuật số, thiên văn,...
Sách Tam quốc chí dẫn Hậu Hán thư viết sau khi Đổng Trác 董卓 bị giết, chỉ có mình ông ôm xác mà khóc, quan Tư đồ Vương Doãn 王允 nhìn thấy hỏi tại sao khóc, ông nói vì ơn tri ngộ. Vương Doãn sai đem giết, ông xin tha mạng để chép tiếp pho sử, mọi người cũng tiếc tài ông mà can ngăn. Vương Doãn nói xưa Tư Mã Thiên vì không bị giết mà để lại Sử ký, nay vận nước rối ren mà để ông cầm bút bên cạnh ấu chúa thì thực tai hại, vì thế sai người giam ông vào ngục rồi bắt thắt cổ chết.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment