Thương cao hoài viễn kỷ thời cùng,
Vô vật tự tình nùng.
Ly sầu chính dẫn thiên ty loạn,
Cánh đông mạch phi nhứ mông mông,
Tê kỵ tiệm viễn,
Chinh trần bất đoạn,
Hà xứ nhận lang tung.
Song uyên trì chiểu thuỷ dung dung,
Nam mạch tiểu kiêu thông,
Thê hoành hoạ các hoàng hôn hậu,
Hựu hoàn thị tà nguyệt liêm lung.
Trầm hận tế tư,
Bất như đào hạnh,
Do giải giá đông phong.
一叢花 - 張先
傷高懷遠幾時窮,
無物似情濃。
離愁正引千絲亂,
更東陌飛絮濛濛,
嘶騎漸遠,
征塵不斷,
何處認郎蹤。
雙鴛池沼水溶溶,
南陌小橈通,
梯橫畫閣黃昏後,
又還是斜月簾櫳。
沈恨細思,
不如桃杏,
猶解嫁東風。
Nhất tùng hoa
(Dịch thơ: Chi Nguyen)
Xa xôi thương nhớ tận cùng.
Lấy chi bày tỏ nhớ nhung cho chàng.
Tơ sầu bao sợi giăng ngang.
Tường Đông hoa rụng, mơ màng liễu buông.
Đường xa ngựa hí dặm trường.
Bụi hồng chưa tỏ, con đường về đâu ?.
Uyên ương sóng bước bên nhau.
Chèo khuya Nam Bắc, làu làu chưa thông.
Những khi trăng rọi bên song.
Những khi lầu gác nhớ mong người về.
Khi đâu suy nghĩ não nề.
Thương cho đào hạnh, bộn về gió đông.
Trương Tiên 張先 (990-1078) tự Tử Dã 子野, người Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang, từng làm quan lang trung. Từ của ông phong cách khá cao, nổi danh ngang với Liễu Vĩnh. Trong Bạch Vũ trai từ thoại, từ của ông được nhận định vừa hàm súc, vừa phát việt. Tác phẩm của ông có An lục tập và An lục từ.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment