Monday, May 25, 2020

CON CÀ CON KÊ

Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt: Con cà con kê

Người Việt chúng ta có thể còn thua kém người khác về mặt này mặt nọ, nhưng về mặt ăn nói thì có lẽ chả thua ai. Được như vậy là nhờ dân ta hiếu học.



Học ăn, học nói. Mới chập chững biết đi, mới bập bẹ biết nói đã phải học. Học cho đến lúc thành người, thậm chí đến lúc sắp chết vẫn chưa thôi.

…Tuy vậy, nghe con chích chòe ba hoa hay con oanh thỏ thẻ cũng đừng vội khó chịu. Chưa ăn thua gì đâu! Bị Con cà con kê kể lể, quấy rầy mới thật là gay. Nhiều người muốn đánh, muốn đuổi Con cà con kê cũng đành bó tay vì... chưa thấy hai con này bao giờ! Ờ nhỉ, Con cà con kê là con gì vậy?

Thành ngữ Con cà con kê được dùng trong bài Kinh nghĩa “Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng”: “(...) Kính lấy đấy! Răn lấy đấy! Liệu học ăn học nói, học gói học mở; khi anh nó hoặc ra xô xát chi lời, cũng tươi, cũng đẹp, cũng vui cười, chớ như ai học thói nhà ma, mà hoặc con cà con kê chi kể lể(...)”.

Tác giả bài “Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng” và bài “Lấy chồng cho đáng tấm chồng” được Trần Trung Viên (“Văn đàn bảo giám”, Mặc Lâm, 1968), Nghiêm Toản (Việt Nam văn học sử trích yếu, Khai Trí, 1968) và Tạ Quang Phát (“Vân đài loại ngữ”, Văn hoá Thông tin, 1995) gán cho Lê Quý Đôn (1726-1784). Dương Quảng Hàm (“Việt Nam văn học sử yếu”, Bộ Quốc gia Giáo dục, 1960) thì cho rằng giả thuyết này “không được chắc lắm”, nhưng ông không đưa ra bằng chứng gì để bác bỏ nó.

Kể lể con cà con kê có nghĩa là: Kể chuyện tấm mẳn (nói những điều nhỏ mọn, không đáng nói). Kể lể nhiều chuyện (Huỳnh Tịnh Của, 1895). Lan man, dông dài, lôi thôi trong khi nói chuyện (Từ điển tiếng Việt, nhóm Văn Tân, 1977). Dài dòng hết chuyện này sang chuyện khác (Từ điển tiếng Việt, nhóm Hoàng Phê, 1988). Nói, kể dài dòng, lan man ít giá trị (Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, Thành ngữ tiếng Việt, Khoa Học Xã Hội, 1978). (Cà là do từ cổ Ca nghĩa là gà). Chê người nói dài dòng, hết chuyện này sang chuyện khác (Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Văn Hoá, 1989).

Kể lể con cà con kê, nói gọn lại là Cà kê, hoặc kéo dài ra là Cà kê dê ngỗng, đều có nghĩa là nói dông dài, nói những chuyện lôi thôi, vụn vặt. Tất cả các từ điển của ta đều thống nhất như vậy. Ngữ nghĩa của Con cà con kê không còn gì để bàn. Nhưng tại sao Con cà con kê lại có nghĩa như vậy? Câu hỏi chính xác hơn là Con cà con kê là con gì? Là đặc sản Việt Nam hay là hàng ngoại được nhập cảng?



Cà kê, là chữ Hán hay Việt, hay không phải Việt cũng chẳng phải Hán?

Trước hết, Con là một từ thuần Việt dùng để chỉ con bò, con người, con thuyền, con Tạo... Kê là chữ Hán, nghĩa là con gà. Con kê là con gà... nửa Việt nửa Hán! Còn Con cà? Chữ Hán không có con cà. Thành ngữ Con cà con kê dứt khoát không phải là chữ Hán.

Tiếng Việt không có con kê, không có con cà. Chỉ có vài con có tên kép như cà đúi, cà tong, cà cuống, cà kếu, cà niễng... Thành ngữ nói trống không “con cà” thì khó mà đoán biết là con gì.

GS Nguyễn Lân cho rằng Cà là do từ cổ Ca nghĩa là gà. Chữ Nôm Gà được viết bằng chữ Ca (người anh) và bộ Điểu. Từ cổ Ca (nghĩa là gà) của GS Nguyễn Lân có liên hệ gì với từ Ca của chữ Hán không? Theo GS Nguyễn Lân thì về mặt ngữ nghĩa, thành ngữ Con cà con kê tương đương với Con gà con kê. Nôm na là... Con gà con gà. Một thành ngữ chỉ có bốn chữ mà bị khập khiễng tới hai lần (vừa pha trộn Việt Hán, vừa lặp lại cùng một ý) thì khó đứng vững và tồn tại được. Rốt cuộc, thành ngữ Con cà con kê cũng chẳng phải là tiếng Việt. Không phải Hán, không phải Việt. Hay là do đọc trại, nói trại mà ra? Trong số những từ có âm gần giống Cà kê thì chữ Hán có từ Ca kệ nghĩa là nhà sư tụng bài kệ. Người xưa kính trọng nhà sư. Bài kinh, bài kệ cho dù có dài thì cũng không đến nỗi bị coi là dông dài, tầm phào, làm phiền người nghe như kể lể Cà kê. Không ai nỡ nặng lời trách móc nhà sư tụng bài kệ như vậy. Cà kê của dân gian khó có thể là biến âm của Ca kệ.

Tiếng Việt có từ Con cả (con trưởng) và Con kế (con thứ). Hay là Con cà con kê đến từ Con cả con kế?

Giả thuyết Con cà con kê là do đọc trại từ Con cả con kế cũng không chấp nhận được.

Nói tóm lại, Con cà con kê không phải Tàu, không phải ta, không phải đọc trại âm. Con cà con kê có vẻ... không phải là hai con vật. Thế thì Cà kê là cái gì? Là Phú Lang Sa chăng?


Kể lể con cà con kê được từ điển của soạn giả người Pháp định nghĩa là: Raconter des histoires de taupes, histoires interminables (kể chuyện con cà đúi, chuyện dông dài) (Gustave Hue, 1936). Con cà là con cà đúi (chứ không phải cà cuống hay cà tong), còn con kê không biết là con gì nên bị bỏ quên. Faire des jérémiades ( than vãn dai dẳng) (Génibrel, 1898).

Kể lể con gà kế: Rappeler un à un des services rendus (kể lể, nhắc lại từng việc đã làm) (Génibrel). Chữ kế ở đây nghĩa là continuer, perpétuer, joindre, immédiat (tiếp tục, kế tiếp).

Kế liếu, kế kèo: toujours, sans cesse (dai dẳng, không dứt).

Génibrel còn cho biết thêm mấy từ: Cà kê cơ cầu: chercher chicane (kiếm chuyện, gây sự). Gustave Hue cũng định nghĩa Cà kê, cà khịa là chicaner ( kiếm chuyện). Nói ca kì: parler longtemps, sans fin; ne pas déparler (nói dai, nói không ngừng). Làm ca kì: trainer en longueur (làm... câu giờ). Ca kì cũng có nghĩa là dông dài, tương đương với Cà kê. Dường như hai từ này chỉ là một, được phát âm bằng hai cách khác nhau.

Kể gà, kể dê, ngỗng: Énumérer poules, chèvres, oies. Énumérer fastidieusement (kể lể nhạt nhẽo, vô duyên). Ngày nay ta thường nói Kể lể Cà kê dê ngỗng. Mấy thành ngữ Kể gà, kể dê, ngỗng, Kể lể con gà kế, Kể lể con cà con kê đều có hình bóng con gà. Ban đầu là Cà kê ngắn gọn, về sau người ta đưa thêm dê ngỗng vào chơi cho đông vui.

Từ điển Robert và Larousse của Pháp cho biết: Caquet (đọc là ca kê, từ tượng thanh, có từ thế kỉ 15): Gloussement de la poule au moment où elle pond (tiếng gà mái kêu lúc đẻ trứng). Nghĩa bóng của Caquet là bavardage indiscret, intempestif (Ba hoa không đúng lúc).

Caqueter (động từ): Parler sans arrêt et de choses futiles, souvent de fa#on importune, gênante (nói không ngừng, nói dông dài, nói chuyện tầm phơ khiến người nghe phải khó chịu). Thật bất ngờ! Cà kê của tiếng Việt và Caquet của tiếng Pháp có nghĩa giống nhau là nói dông dài.

Phát âm cũng giống nhau theo quy luật âm “ca” của tiếng Pháp chuyển sang tiếng Việt thành “cà” (cà rốt, cà nông, càphê...). Cà kê giống Caquet từ âm đến nghĩa.

Caquet xuất phát từ tiếng gà cục tác. Cà kê cũng thấp thoáng bóng dáng con gà. Cà là gà (?), kê là gà, cà kê có họ với con gà kế v.v… Ngẫu nhiên Cà kê của ta giống Caquet của Pháp chăng?

Xét về mặt ngôn ngữ thì Cà kê không phải là từ thuần Việt, cũng không phải là thuần Hán cho nên không thể có sự ngẫu nhiên giống nhau được. Chỉ còn một giải thích thoả đáng là ta đã nhập cảng Caquet của Pháp và Việt hoá thành Cà kê.

Kết quả của cuộc giao lưu văn hoá là Cà kê được ra đời vào khoảng cuối thế kỉ 19.

Như vậy thì... tác giả bài Kinh nghĩa “Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng” không thể là Lê Quý Đôn (1726-1784) được.

Dương Quảng Hàm có lí. Con cà con kê là một bằng chứng. Lại thêm một vấn đề văn học! Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa!


Nuôi được Con cà con kê, người xưa không ngần ngại mời thêm hàng xóm của gà vào chơi cho đông vui. Các bà, các ông từ nay có thể Kể lể cà kê dê ngỗng, hay Kể gà, kể dê, ngỗng. Dê thuộc tam sinh (ba con vật được dùng để tế lễ là trâu, dê, lợn), bị tụt xuống ngang hàng với gà vịt. Thật ra thì dê được mời vào chơi chỉ vì dê... đúng vần mà thôi. Nếu không phải là dê thì là Kể lể cà kê bê ngỗng, cà kê tê ngỗng, hay cà kê trê ngỗng cũng được. Miễn là hai “con” đầu đàn phải là Cà kê.

Họ hàng của Cà kê lập nghiệp tại Việt Nam khá đông: Cà riềng cà tỏi (nói đi nói lại có một chuyện). Cà rịch cà tang (làm việc chậm chạp). Cà kê bị rút ngắn, chỉ giữ lại từ Cà thôi. Ca kì (longtemps, sans fin: dông dài), Cà khịa (gây sự, kiếm chuyện), Kề cà (để mất nhiều thì giờ vì những việc không quan trọng, không cần thiết) v.v...

Phân tích lối nói Cà kê đúng là... dông dài, tầm phào mất thì giờ. Hi vọng rằng không đến nỗi... làm người nghe phải khó chịu! 


Cà kê là một kiểu nói của Pháp được Việt hoá.


Lyon, 9.2004 (Theo “Chim Việt cành Nam”, LĐCT lược trích)
Nguyễn Dư

No comments: