Saturday, May 2, 2020

KỲ LÂN CHỢ LỚN

Kỳ lân Chợ Lớn: Ngũ bang 'tranh hùng'

Thế giới kỳ lân thực vẫn tồn tại nhiều bí ẩn với những luật lệ, huyền thoại, cùng những bài diễn vang danh khắp năm châu…

Lò lân Thanh Liên Đường năm 1961 với một đầu lân, một ông Địa – Ảnh: T.L

“Nơi nào có người Hoa là có múa lân”. Câu nói quen thuộc trong cộng đồng người Hoa cùng loại hình nghệ thuật múa lân hẳn không xa lạ trong đời sống văn hóa Việt. Nhưng thế giới kỳ lân thực vẫn tồn tại nhiều bí ẩn với những luật lệ, huyền thoại, cùng những bài diễn vang danh khắp năm châu. Khám phá nghệ thuật múa lân của cộng đồng người Hoa Chợ Lớn (TP.HCM) là câu chuyện thú vị mà Thanh Niên chia sẻ đến độc giả…

Những bước nhảy dũng mãnh khi lên Mai Hoa Thung, những động tác đầy hiểm nguy trên ngọn tre cao hơn chục mét, những bước nhảy tươi vui cùng điệu bộ của hỉ – nộ – ái – ố hay động, tĩnh, kinh, nghi, thụy, tỉnh… của nghệ thuật múa lân luôn khiến người xem mãn nhãn. Đằng sau vẻ đẹp tinh hoa ấy là công phu khổ luyện của những người theo nghề.

Du nhập VN theo chân người Hoa vùng Chợ Lớn, nghệ thuật múa lân phát triển mạnh từ những năm đầu thế kỷ 20, do các võ phái lẫy lừng võ lâm như Bạch Mi, Thái Lý Phật, Thiếu Lâm Châu Gia, Nga Mi, Võ Đang, Thiếu Lâm Hồng Gia… mở lò.

Mỗi lò lân lại do một bang hội người Hoa vùng Chợ Lớn đứng ra tài trợ (thuộc nhóm ngũ bang: Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam, Khách Gia), nhằm phục vụ cộng đồng trong các dịp lễ tết, khai trương, chúc thọ.

Theo quan niệm người Hoa, lân tượng trưng cho sự oai võ, hùng mạnh, đem lại điềm lành, điềm may mắn. Mỗi con lân mang màu sắc, nét uy nghiêm khác nhau tượng trưng cho từng nhân vật trong truyện Tam quốc diễn nghĩa gồm Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long và Hoàng Trung, gần đây hình ảnh Gia Cát Lượng, Mã Siêu, Lữ Bố cũng được đưa vào lân. Ở mỗi thời kỳ phát triển, bộ môn múa lân vùng Chợ Lớn tồn tại những nguyên tắc, khuôn phép mà người theo nghề phải tuyệt đối tuân theo.

Lân đụng giang hồ

Chuyện múa lân Chợ Lớn xưa thường khiến dân ngoại đạo tò mò về thực hư những trận giao tranh khốc liệt giữa các lò lân nhằm giành lãnh địa, tiền thưởng ở các khu vui chơi nổi tiếng như Đại Thế Giới, Đồng Khánh… hoặc những va chạm bất chợt trên đường khi các đoàn lân xuất động gặp nhau.

Cho trẻ em chạm vào lân để lấy hên theo quan niệm của người Hoa – Ảnh: Nguyễn Đình

Lão võ sư 85 tuổi Khổng Đức Bân (thuộc Bạch Mi phái, hơn 70 năm tuổi nghề) cho biết những năm 1930 – 1970 một đoàn lân thường chỉ có một đầu lân, một trống (hai thứ quan trọng nhất), kèm theo là cờ, binh khí và võ sinh lên đến 20 – 30 người. Mỗi khi lân xuất động, võ sư cùng các võ sinh ưu tú nhất lò thường theo sát để bảo vệ. Trường hợp hai lò lân đụng nhau, nếu có xích mích phải giải quyết bằng giao đấu, môn sinh cả hai bên có thể bị thương nhưng trống và đầu lân phải được bảo toàn. Bên nào bể trống hoặc đầu lân coi như thua, mất tiếng trên giang hồ, thậm chí phải giải nghệ.

“Chuyện lân giành lãnh địa người đời đồn thổi nhiều, chứ các lò lân khi hoạt động cũng biết trên dưới rõ ràng, cư xử chừng mực với nhau lắm. Thời tôi diễn, lân đụng chuyện với giang hồ khá thường xuyên. Mỗi khi qua bến Hàm Tử, bến Chương Dương, bến Trần Văn Kiểu… là sợ nhất vì dễ bị giang hồ khu ổ chuột phá đám, lén chọi đá, cây vào đoàn lân, nên xảy ra va chạm, đánh nhau hoài”, ông kể.

Ngoài chuyện thể hiện đẳng cấp về thâm niên trong nghề bằng lân râu đen – lân râu bạc, trọng lượng chiếc đầu lân cũng là một chi tiết được các lò lân chú trọng bởi nó thể hiện công phu của người điều khiển. Chợ Lớn từng ghi nhận kỷ lục về chiếc đầu lân nổi tiếng do võ sư Trạc Túc thuộc Bạch Mi phái biểu diễn ở những năm 1960 – 1970, nặng đến 30 kg, trong khi đầu lân hiện đại nhẹ hơn… 10 lần.

Lão võ sư Bân cũng là đồng môn với võ sư Trạc Túc, lý giải: “Đầu lân những năm 1930 nhẹ nhất cũng phải 10 kg, vì nguyên liệu ngày xưa chủ yếu là khung tre, bọc giấy xi măng nhiều lớp, thêm hồ keo nên rất nặng, đứa nhỏ 20 – 30 kg đứng lên nhún nhảy thoải mái mà không bị bể. Lý do khác là thời còn đốt pháo, đầu lân cần gia cố vững chắc để khi múa tết, lân cầm phong pháo trung, pháo đại, đang nổ rát thì người biểu diễn cũng không hề hấn gì. Nguyên nhân thứ ba là các lò lân gặp nhau trên đường dễ sinh “đụng lân”, tức hai con lân cùng múa đối mặt rồi dùng đầu lân đụng mạnh vào nhau. Con nào bể hay sứt càng gãy gọng trước là đội lân đó bị mất mặt và hết phương tiện diễn”.


Võ và đạo trong nghề lân

Xưa người muốn theo nghề lân phải khổ luyện bộ pháp, quyền pháp, cước pháp đạt độ tinh thông mới được chuyển sang múa lân. Được cầm đầu lân, đại diện môn phái thi triển tuyệt chiêu về lân cho mọi người thưởng lãm là vinh dự cho bản thân.

Võ sư Lưu Kiếm Xương, người tiếp quản lò lân hàng đầu khu Chợ Lớn hiện nay là Nhơn Nghĩa Đường (cố võ sư Lưu Hào Lương, Chưởng môn Thiếu Lâm Châu Gia tại VN sáng lập từ 1936), đúc kết: “Sư tôn dạy nghề lân không phải để diễu võ dương oai, tranh giành địa bàn, gây rối làng lân. Theo nghề trước hết là học võ thuật để giữ gìn sức khỏe, vận dụng võ thuật vào lân để tạo nên những bài múa đẹp, và từ đó nâng dần thành môn nghệ thuật”.

Lò lân danh tiếng khác vùng Chợ Lớn là Thắng Nghĩa Đường của võ phái Thái Lý Phật. Trước khi được sư phụ để mắt và cho luyện múa lân, võ sinh phải luyện võ miệt mài. Chẳng hạn, tập với mộc nhân, bao cát, túi sỏi để tăng sức mạnh quyền, cước, chưởng pháp; luyện công phu “thiết chỉ” (ngón tay sắt) ít là hai năm để đạt khả năng kẹp trái cau giữa hai ngón tay đập xuống mặt bàn đến khi cau bể; dùng ngón trỏ gõ bể cái tô sành…

Võ sư Huỳnh Chí Dân, Chưởng môn phái Thiếu Lâm Chánh Tông Thái Lý Phật, phụ trách đoàn lân Thắng Nghĩa Đường, cho biết: “Lân khi xuất động được coi là đại diện tinh thần của võ phái nên không thể để các võ sinh yếu nghề biểu diễn. Vì thế, để một võ sinh từ lúc bắt đầu học đến khi thuần thục trình diễn, cần ít nhất 5 năm khổ luyện”.


Bên cạnh học võ, múa lân, các võ sinh ở Chợ Lớn còn được học “đạo” riêng của từng võ phái. Võ sinh trong lò lân Thắng Nghĩa Đường thuộc nằm lòng những bài học đạo cơ bản: “ấu tập lão luyện” (trẻ tập – già luyện), “chí cần song tiến” (phát huy ý chí và chuyên cần), “tiết sắc” (hạn chế tửu sắc), “bổ thực” (ăn uống bồi bổ cơ thể)… Nói như võ sư Huỳnh Chí Dân: “Võ dạy về tính cương nên cần dạy đạo để cân bằng”.

Mỗi lò lân mang một trường phái, phong cách đào luyện, kỷ luật và nguyên tắc riêng. Tất cả được truyền đời để nghệ thuật múa lân của người Hoa Chợ Lớn ngày càng phát triển, không chỉ bó hẹp trong cộng đồng, mà nay đã hội nhập với cả khu vực và quốc tế khi luôn trong nhóm 3 nước đứng đầu các cuộc thi về múa lân toàn thế giới.

Kỳ lân Chợ Lớn: Lân phá trận

Màn kết của buổi diễn sẽ là 'trận pháp' mà đội lân phải hóa giải. Phá trận thành công mới nhận được quà thưởng, đồng thời lò lân ấy càng tăng uy tín trong nghề.

Bước nhảy của lân khi lên mai hoa thung

Múa lân Chợ Lớn có hai dòng: hiện đại và truyền thống. Lân hiện đại nay nở rộ, có tiền là có thể mở đoàn, khi đi diễn thường tự bày “trận pháp” và tự hóa giải. Lân truyền thống, vẫn còn kỷ luật, khuôn phép riêng trong việc chọn vận động viên, bài múa, các chiêu thức tuyệt kỹ, đều là sự đào luyện công phu.

Người Hoa đa phần đều am hiểu nghệ thuật múa lân, nên khi mời lân đến diễn sẽ bày ra những trận pháp thử thách mà đoàn không hề biết trước. Phần thưởng càng lớn, thử thách càng khó. Việc hóa giải trận pháp giành tiền thưởng bao giờ cũng là những cuộc đấu trí lực căng thẳng.

Tuyệt kỹ nghề lân

Một kỹ thuật độc đáo mà đoàn lân nào cũng phải rèn luyện thuần thục đó là bài Cao không hái lộc. Ngày trước để thực hiện bài diễn này, võ sinh phải triển khai động tác “trồng La Hán” (trồng người) để hái được lộc gia chủ treo trên cao ngay cổng nhà. Nhiều gia chủ treo cao quá tầm, thậm chí treo cả lên dây điện gây khó cho đoàn, do vậy bài diễn này được cải tiến thành “trúc thanh”, vận dụng sự uyển chuyển của cây tre để người múa lân có thể tiếp cận những “lộc” ở độ cao 13 - 15 m.

Tôi theo chân cao thủ leo “trúc thanh” hàng đầu VN là Lưu Hoán Phi của lò Nhơn Nghĩa Đường đến buổi diễn mừng khai trương. Sau những bài diễn phổ thông với Lân Hí Địa, Long Lân Tương Hội, đỉnh điểm của buổi diễn là phần hái “lộc” phải cần đến “trúc thanh”. “Lộc” hôm ấy cao ngang đỉnh cột điện chừng 13 m, cả đoàn xúm vào giữ thân cây tre trụ thẳng để người múa lân thẳng tiến lên ngọn. Khi đã yên vị trên đỉnh cọc tre đường kính chưa đầy 10 cm, nhịp trống càng tưng bừng hơn, lân tiếp tục diễn các tư thế làm thót tim người xem như “câu cước” (đứng vuông góc cây tre, thân hình song song mặt đất), “tĩnh trụ” (úp bụng vào cọc tre), rồi “vũ quá thiên cầu” (úp bụng xoay vòng thân người trên cọc tre)... khiến ngọn tre dao động và rung lắc dữ dội, nhiều người lấy tay che mặt vì quá sợ hãi. Cũng đúng thôi vì trong múa lân đây là bài diễn khó và nguy hiểm nhất, đã từng có người tử nạn.


Tiết mục độc đáo khác là bài Lân lên mai hoa thung, thể hiện hình tượng lân độc hành vượt núi non trùng điệp (là những trụ sắt xếp liền kề cao thấp khác nhau tùy công phu người biểu diễn). Để diễn được trên giàn thung thuần thục, chí ít cũng mất hai năm khổ luyện. Cột lên thung càng cao (kỷ lục hiện là 1,7 m), khoảng cách giữa hai cọc thung càng xa (kỷ lục là 3 m) càng chứng tỏ đẳng cấp của đoàn lân và người biểu diễn.

Lân lên mai hoa thung là tiết mục đòi hỏi độ khó và tính nghệ thuật cao, sự phối hợp giữa hai người cùng nhịp trống phải thật ăn ý và chính xác, chỉ sơ sểnh nhỏ là rớt khỏi giàn thung. Người có đủ kỹ năng lên giàn thung hoặc leo “trúc thanh” ở làng lân cũng như các siêu sao bóng đá, lò lân thiếu họ như mất công phu hơn nửa.

Trận pháp trong thế giới Kỳ Lân

Hai trận pháp phổ thông trong nghệ thuật múa lân là Địa bửu (trận pháp dưới mặt đất) và Thiên tài (trận pháp trên không trung).

Lân hiện đại ngày nay thích trận pháp Thiên tài hơn, vì dễ dàng biến tấu tùy theo năng khiếu và tài ứng biến của người diễn. Người xem cũng thích các trận pháp Thiên tài bởi khi lân diễn trên cao (Lân lên mai hoa thung, Lân hái lộc), mọi người đều dễ dàng quan sát. Yếu tố nguy hiểm, kịch tính được người diễn tạo ra dễ gây hiệu ứng cho người xem.
Trong khi đó, trận pháp Địa bửu phải tuân theo những nguyên tắc, bộ pháp nhất định, thường dành cho dân trong nghề quan sát lẫn nhau để phân tài cao thấp. Các trận pháp Địa bửu không gây nguy hiểm nhưng đòi hỏi công phu luyện tập nhuần nhuyễn và thâm niên trong nghề.


Võ sinh Huỳnh Gia Bửu thuộc lò lân Thắng Nghĩa Đường chia sẻ: “Nhiều gia chủ mời cùng lúc hai đoàn lân đến múa, ngoài yếu tố đem lại sự vui nhộn, đằng sau đó luôn là cuộc cạnh tranh ngầm. Gia chủ thường bày trận để hai đoàn cùng phá, nếu lân nào phá trước nghiễm nhiên giành uy tín hơn, được người xem nể trọng”.

Một trong những trận pháp mà giới múa lân vùng Chợ Lớn dù thâm niên cũng rất ngại là Thiên la Địa võng”. Ở trận pháp này, gia chủ sẽ chuẩn bị một lớp lưới kẽm gai, dùng cọng chỉ đỏ thật dài một đầu cột đồng xu, đầu còn lại cột vào lớp lưới gai và quấn chỉ lắt léo trên lớp lưới kẽm được đặt thấp. Nhiệm vụ của lân phải khom người lạc vào trận pháp đó, dùng bộ tấn chùng, kết hợp các động tác uyển chuyển để từng bước tháo dần đồng tiền xu ra khỏi lưới kẽm gai mà cọng chỉ không bị đứt.

Trên lưng lân là kẽm gai nhọn, lại không ngửa được mặt lên vì lưới thấp, càng đứng lâu càng mỏi, nhưng trụ bộ vẫn phải vững vàng, vừa gỡ đồng xu vừa tạo các động tác múa ăn ý với nhịp trống. Khi bộ mã thấp múa lân rất khó, nên đây chính là thử thách cam go nhất cho các võ sinh khi tham gia phá trận này.

Trận pháp khó nhằn thứ hai là Thanh Long - Bạch Hổ. Một con cá trê (tượng trưng cho Thanh Long) và một con cua (tượng trưng cho Bạch Hổ) được bỏ chung vào thùng gỗ, đổ nước đầy, bỏ dưới đáy ba đồng xu, nhiệm vụ của lân bằng mọi cách gắp ra ba đồng xu ấy.
Có gia chủ còn chơi nghiệt hơn là đổ mực tàu vào chậu nước, nhìn mặt nước đen thui, thò tay vào khoắng nhẹ thì bị cá trê đánh, nặng hơn thì càng cua kẹp, dính đòn nào cũng đau điếng. Những trận pháp này muốn phá được đều đòi hỏi mưu trí và công phu của người múa lân.


Một trận pháp vui nhộn khác có kết hợp thi triển võ thuật là Độc xà cản lộ. Trận pháp gồm một cây côn dài tượng trưng cho thân rắn, 2 cây song tô (còn gọi là tử mẫu đao) tượng trưng mang rắn, hai trái quýt tượng trưng cho cặp mắt. Cách phá trận này khác với múa lân thông thường, đầu tiên con lân sẽ vào ăn hai trái quýt, ý để làm đui mắt rắn, sau đó hai vận động viên thoát khỏi bộ trang phục lân, cầm trường côn và song tô giao đấu quyết liệt cho đến khi trận phá xong, hai võ sinh nhập lại mình lân và tiếp tục hành trình.

Những tuyệt kỹ trong nghề cùng các thế trận vẫn được các lò lân khu Chợ Lớn bảo tồn và phát triển, để nghệ thuật múa lân từ khi du nhập vào VN cho đến nay vẫn luôn được xem là môn nghệ thuật đỉnh cao, đậm tính truyền thống trong đời sống văn hóa của người Hoa Chợ Lớn.

Nguyễn Đình

No comments: