Wednesday, July 10, 2024

THOA ĐẦU PHƯỢNG - LỤC DU


THOA ĐẦU PHƯỢNG - LỤC DU

Hồng tô thủ,
Hoàng đằng tửu,
Mãn thành xuân sắc cung tường liễu.
Đông phong ác,
Hoan tình bạc.
Nhất hoài sầu tự,
Kỷ niên ly tác!
Thác! Thác! Thác!
Xuân như cựu,
Nhân không sấu,
Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu.
Đào hoa lạc,
Gian trì các.
Sơn minh tuy tại,
Cẩm thư nan thác.
Mạc! Mạc! Mạc!


釵頭鳳 - 陸遊

紅酥手,
黃滕酒,
滿城春色宮牆柳。
東風惡,
歡情薄。
一懷愁緒,
幾年離索!
錯!錯!錯!
春如舊,
人空瘦,
淚痕紅浥鮫綃透。
桃花落,
閒池閣。
山盟雖在,
錦書難托。
莫!莫!莫!


Thoa đầu phượng (Người dịch: Đông A)

Nâng vang đỏ,
Hoàng đằng đó
Khắp thành rờn liễu màu xuân tỏ
Gió đông ác,
Tình yêu bạc
Nỗi lòng buồn bã,
Tháng năm tan tác
Thác! Thác! Thác!
Xuân như cũ,
Người vò võ
Lệ hoen hồng sợ tơ treo rõ
Hoa đào lạc,
Ao ngăn cách
Trăng thề còn đó,
Lá thư khôn bạch
Mạc! Mạc! Mạc!


THIÊN CỔ HẬN Thoa Đầu Phượng - Lục Du Đường Uyển

Bài từ Thoa Đầu Phượng được Lục Du sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt:

Ban đầu Lục Du lấy người em họ (con cậu) là Đường Uyển, hai người rất tâm đầu ý hợp, nhưng thân mẫu của Lục Du lại không ưa Đường Uyển, lại nghe thêm những lời gièm pha nên bà buộc hai người phải ly hôn.

Về sau, Lục Du lấy Vương Thị, Đường Uyển cũng tái giá, lấy Triệu Sĩ Trình. Mấy năm sau, vào mùa xuân, hai người tình cờ cùng đi chơi vườn Thẩm, ngẫu nhiên gặp nhau. Đường Uyển lấy tình anh em họ, gửi rượu và dã vị mời Lục Du. Lục Du vô cùng thương cảm, vung bút đề lên bức tường trong vườn Thẩm bài Thoa Đầu Phượng này.

Đường Uyển sau khi đọc được bài này trong lòng rất đau khổ, làm một bài từ cũng theo điệu Thoa Đầu Phượng họa lại. Sau đó nàng đau buồn, lâm trọng bệnh mà qua đời.

Lục Du hay tin như sét đánh ngang tai, mấy phen khóc đến chết đi sống lại. Từ đó về sau, cái tên Đường Uyển đã trở thành một đề tài quen thuộc trong sáng tác văn chương của Lục Du.
Mãi đến khi 84 tuổi ông vẫn không quên người vợ này, người tri kỷ lúc đầu của mình. Người đời đánh giá đây chính là một mối tình “thiên cổ hận”.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lục Du 陸遊 (1125-1209) tự Vụ Quan 務観, hiệu Phóng Ông 放翁, người Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh chiếm xuống phía nam, đất nước chia 5 xẻ 7, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột kích quân Kim nhiều lần. Ông có "Kiếm nam từ" chuyên tập lưu truyền đến nay.

Nguồn: Thi Viện



No comments: