Hoa Diên Vĩ, tiếng Anh gọi là IRIS, tiếng Hoa 鸢尾 thuộc Họ Diên vĩ hay họ Lay ơn hoặc họ La dơn (danh pháp khoa học: Iridaceae) là một họ thực vật nằm trong bộ Măng tây (Asparagales). Tên gọi diên vĩ là lấy theo chi Diên vĩ (Iris), còn tên gọi lay ơn (lay dơn) là lấy theo chi Lay ơn (Gladiolus). Nó bao gồm một số loài cây trồng được nhiều người biết đến như diên vĩ (Iris spp.), nghệ tây (Crocus spp.), sâm đại hành (Eleutherine spp.), rẻ quạt (Belamcanda spp.) v.v.
Các loài trong họ này là cây thường xanh, với thân hành, thân củ hay thân rễ. Các loài cây này nói chung có thân mọc thẳng và các lá có hình dáng giống lá cỏ, với nếp gấp trung tâm sắc nhọn.
(theo Wikipedia)
Ý NGHĨA CỦA LOÀI HOA DIÊN VĨ
Iris là tên chung chỉ các loài cây có lá hình lưỡi kiếm và hoa lớn màu sáng, tiêu biểu ở nước ta đó là câu đuôi diều, cây diên vĩ, cây lưỡng đồng v.v...
Nguồn gốc cái tên
Trong thần thoại Hy Lạp, Iris là sứ giả của các vị thần. Nàng luôn luôn được miêu tả với đôi cánh ánh cầu vồng. Từ sự liên tưởng ấy cây Iris đã có được cái tên của mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, những bông hoa Iris thực sự là những cánh cầu vồng trong các khu vườn.
Chúng được sắp xếp từ màu tía thẫm, màu nâu và màu đồng thiếc cho tới sắc hồng và xanh da trời phơn phớt, với phần cánh giữa luôn là màu vàng. Chỉ cần ngắm nhìn thôi cũng đủ khiến bạn tràn đầy sức sống, sự mới mẻ và ngập tràn niềm vui.
Mặc dù vậy, vẫn có một số loại của Iris có các đặc tính thảo mộc được chào đón trong vườn cây thảo. Những tán lá “ như muốn đánh nhau” của cây cùng với sắc vàng, xanh đậm hay màu trắng tinh tế, màu xanh lung linh mờ ảo của hoa sẽ mang điểm nhấn đầy nghệ thuật thêm vào cho khu vườn.
Đây là loại cây đã phát triển và được sử dụng trong một thời gian dài. Chúng là một phần lịch sử của người da đỏ ở Bắc Mỹ. Những ghi chép từ thời Trung đại về tính hữu ích của Iris đã được những người trồng và bán dược thảo Châu Âu viết lại. Nhiều những tài liệu khác nữa cho thấy công dụng của Iris đã có mặt ở Ai Cập cổ đại từ 1540 TCN.
Hương thơm từ những bông hoa cũng giúp thúc đẩy quá trình chữa trị vết thương trong xoa bóp trị liệu. Chắc chắn rằng, việc tận hưởng khi ngắm những bông hoa tuyệt đẹp cũng có hiệu quả chữa bệnh cho cơ thể của chúng ta.
Cũng có thể sử dụng những bộ rễ từ một số loài cho đến việc dùng rễ cây Iris thơm để chế tạo nước hoa và những túi thơm (hỗn hợp những cánh hoa khô và hương liệu) được dùng để lưu giữ hương thơm trong tủ quần áo và ngôi nhà của bạn.
Từ thế kỉ 15, rễ cây Iris thơm đã là một trong những thành phần quan trọng nhất của bất kỳ nghành kinh doanh hương liệu nào. Mùi thơm của nó khá giống với hương ngọt ngào của hoa Violet nhưng giá trị thực sự ở nó là khả năng hài hòa những mùi hương khác nhau trong hỗn hợp nhiều loài hoa.
Đặc biệt là sử dụng trong những túi thơm, ở đó các tinh chất từ rễ cây Iris thơm được ngấm và hòa trộn với những thành phần hoa khô khác.
Các loại Iris
Rễ cây Iris thơm được lấy từ 3 loại Iris có họ hàng thân thiết với nhau, đó là Iris germanica, Iris florentina và Iris pallida.
Nhiều rễ cây Iris thơm sử dụng ngày nay được trồng ở Italy. Mất từ 2 đến 3 năm cho một Iris từ lúc mới trồng cho đến khi trưởng thành trước khi bộ rễ được thu hoạch. Những thân rễ nên được đào lên, lột vỏ, xát thành bột hoặc băm nhỏ khi vẫn còn tươi và mềm. Sau đó, nhất định phải để nó lại cho khô ít nhất 2 năm trước khi mùi thơm đạt đến mức tối đa.
Iris florentina có lẽ là sự lựa chọn tốt nhất trong 3 loai Iris có bộ rễ thơm cho khu vườn dược thảo. Nó tỏa hương thơm ngát và có màu hoa cà phớt trắng. Nó mang lại cảm giác mà tác giả và người làm vườn Patrick Lima gọi là ấn tượng “óng ánh nhiều màu”, vẻ đẹp đó càng nổi bật hơn khi người ta đặt nó trước nền tối.
Khác với những loại Iris thảo mộc đó là những cây Iris xanh và vàng- Iris versicolor và Iris pseudacorus. Nó có nguồn gốc từ Bắc Mỹ nhưng cây Iris vàng là một giống cây ngoại có nguồn gốc từ Châu Âu mà thật kỳ lạ, tự nó có mặt ở nơi đây.
Cả 2 loại này đều ưa đất ẩm, không như Iris rễ thơm thích những vị trí khá khô ráo và tháo nước tốt. Có thế thấy rằng Iris vàng phát triển tuyệt diệu trên một bãi cỏ mọc ở mảnh vườn lát đá. Iris versicolor nhỏ hơn nhưng rất đẹp. Nó cần một chỗ bùn lầy, rộng rãi để có thể mọc thành bụi cây lớn và màu xanh của những bông hoa như phản chiếu sắc trời xanh bên trên.
Trước đây, rễ của những cây này được dùng làm thuốc với rất nhiều mục đích nhưng người ta cho rằng chúng là một loại thuốc tẩy ( thuốc xổ) nguy hiểm, không nên tự ý dùng chữa bệnh tại nhà.
Tuy nhiên cây Iris xanh được người da đỏ Bắc Mỹ sử dụng rộng rãi như 1 loại thuốc cao đắp lên những chỗ sưng tấy, vết bỏng và vết lở loét. Nó còn được biết đến vì mùi hương từ rễ sẽ khiến cho các loài rắn tránh xa. Tác giả và nhà thảo dược học Charlotte Erichsen-Brown đã ghi chú rằng người Ấn Độ ở Arizona sử dụng nó trong những vũ điệu rắn và thậm chí họ còn nhai nó để đảm bảo an toàn khi cho những con rắn chuông vào trong mồm của mình!
Iris vàng trong quá khứ được dùng để chữa ho và những vết bầm tím trên người nhưng nó quá nguy hiểm bởi đặc tính như thuốc tẩy của mình nên bây giờ không còn được sử dụng.
Cuối cùng, một loại Iris thú vị nữa không thể bỏ qua, nó có một cái tên rất kỳ cục bởi mùi thơm mang vị… thịt bò nướng của mình.
Tên thực vật học là Iris foetidissima, được dùng như một loại thuốc và cũng bị ngừng sử dụng vì khá độc. Là một loài cây lâu năm, hoa của nó không thực sự nổi bật nhưng vẻ đẹp rực rỡ tiềm ẩn là ở chính những hạt màu đỏ lấp lánh được phô bày khi những cánh hoa đã héo tàn và bắt đầu mở ra.
Đó chính là những hạt giống của cây có thể lưu giữ được rất lâu. Chắc chắn đây là loại cây bạn muốn thêm vào khu vườn của mình. Lưu ý là nó rất thích nơi râm mát.
Hoa Khô Iris - Sưu Tầm
(Sưu tầm trên mạng)
No comments:
Post a Comment