Thơ: Du Tử Lê, nhạc: Từ Công Phụng
Bài thơ được viết năm 1967, linh hồn chính của bài thơ là một cô giáo - Lê Huyền Châu (Cháu ruột của Giáo Sư Lê Ngọc Trụ). Có thể coi đây là mối tình đầu của nhà thơ Du Tử Lê. Họ không đi đến hôn nhân được vì sự khác biệt giữa hai gia đình Nam Bắc. Năm 1975 nhà thơ Du Tử Lê định cư ở Mỹ, Huyền Châu còn ở lại Việt Nam. Hai mươi sáu năm sau, 1991, ông về thăm lại người yêu cũ, và có ý định đem Huyền Châu đi. Nhưng vì còn cha mẹ già . Cô từ chối. Hiện nay cô vẫn còn độc thân và vẫn còn cư ngụ tại căn nhà cũ ở Bến Chương Dương.
Bài thơ sau này được nhạc sĩ Từ Công Phụng phổ nhạc, có nhan đề "Trên Ngọc Tình Sầu"
Khúc thêm cho Huyền Châu
Thơ: Du Tử Lê
Hạnh phúc tôi từ những ngày nước lớn
Trời mưa mau tay vuốt mặt khôn cùng
Bầy sẻ cũ hom hem chiều ngói xám
Trời xanh xao chân ngỏ cũng không về
Cây mộng nở từng ngón tay lá nõn
Nôi tương tư cỏ ấm thịt da người
Tôi hiu hắt từ mắt em ngắt tạnh
Môi thâm khô từ thuở định xin hôn
Ngày tháng hạ khi không mà trở rét
Em khi không mà trở mặt điêu ngoa
Tay trông ngón hương đưa mùi tóc mạ
Ngọn me xa theo ký ức rì rào
Chiều qua đó chân ai còn ríu rít
Lời ai say cho trời đất lại gần
Kỷ niệm tôi từ những ngày vỡ tiếng
Nhẩn nha gom từng cọng thiết tha rơi
Con dế nhỏ lớn lên đăm tiếng hát
Khi đêm về ru giọng đớn đau hơn
Cây niên thiếu cũng thui mầm trong sáng
Lá oan khiên lả tả mái hiên người
Tôi èo người từ những người cả gió
Con dế buồn tự tử giữa đêm sương
Bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ
Ngọn me xưa già khọm tiếc thương hờ
Em ở đó bờ sông còn ẩm cát
Con sóng tình vỗ mãi một âm quên.
DU TỬ LÊ
1967
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Du Tử Lê (1942-) tên thật là Lê Cự Phách, sinh năm 1942 tại Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, ông di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài Bến tâm hồn, đăng trên tạp chí Mai.
Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cựu phóng viên chiến trường, thư ký toà soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải Thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17/4/1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam. Sau sự kiện 30/4/1975, ông tị nạn tại Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay phải, và Văn nghệ ở Mỹ.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment