Sự tích của Thứ 6 Ngày 13 là sự chết chóc của những nguời của Hội kín Sion qua hơn một thiên niên kỷ , dưới sự tàn bạo của một vị Giáo hoàng Clement V
Pope Clement V (Thời gian giữ chức Giáo Hoàng từ 05/06/1305 đến 20/04/1314)
Tu vện Sion được một vị vua người Pháp có tên là Godefrey de Bouillon thành lập ở Jerusalem năm 1099, ngay sau khi ông ta chinh phục được thành phố này .
Vua Pháp Godefrey de Bouillon (thời gian trị vì 22/7/1099 - 18/7/1100)
Vua Godefroi là người biết nhiều bí mật lưu lại trong gia tộc ông từ truớc Công nguyên. Sợ rằng những bí mật đó sẽ mất đi khi ông băng hà, nên ông đã lập ra một hội kín lấy tên là "Tu viện Sion" và giao cho họ nhiệm vụ bảo vệ bí mật này bằng cách lặng lẽ truyền nó từ đời này sang đời khác.
Một trong những tàng tích của Tu Viện Sion tại Jerusalem (Sion Mount)
Đây là trung tâm đầu tiên trên đỉnh của Temple Mount ở Jerusalem củ giáo phái Sion . Những nguời trong cuộc Thập Tự Chinh gọi là Đền thờ Solomon
Trong những năm ở Jerusalem, Tu viện Sion đã biết một chỗ cất giấu những tài liệu được chôn dưới đống đổ nát của ngôi đền Herod; bản thân ngôi đền này lại được xây dựng trên hoang tàn của ngôi đền thờ Solomon trước đó. Những tài liệu này - họ tin vậy khẳng định cái bí mật đầy quyền năng của Godefroi và, về bản chất, nhạy cảm đến nỗi Nhà Thờ sẽ không từ thủ đoạn nào để giành được chúng.
Hiệp sĩ Templar
Tu viện Sion thề rằng dù có mất bao lâu đi nữa cũng phải thu hồi những tài liệu này từ đống gạch vụn bên dưới ngôi đền thờ đó và mãi mãi bảo vệ chúng, để cho sự thật sẽ trường tồn. Nhằm thu hồi lại chỗ tài liệu từ trong đống đổ nát ấy, Tu viện Sion đã lập ra một binh chủng một đội gồm chín hiệp sĩ có tên gọi là Dòng các Hiệp sĩ nghèo của Chúa Jesus và ngôi đền Solomon. Họ thường được biết đến nhiều hơn với tên gọi Các Hiệp sĩ Templar. Các Hiệp sĩ Templar trương ra để thực hiện sứ mệnh của mình. Mục đích thật sự của họ ở Đất Thánh là thu hồi mớ tài liệu từ dưới đống đổ nát của ngôi đền.
Cuộc Thập tự chinh thứ hai (Battle of Hattin in 1187)
Các Hiệp sĩ đó đã ở Đất Thánh trong suốt cuộc Thập tự chinh thứ hai và đã nói với vua Baldwin II rằng họ ở đó để bảo vệ những tín đồ đạo Cơ đốc trên đường hành hương. Mặc dù không được trả công và chịu phận nghèo khổ, các Hiệp sĩ đã nói với nhà vua là họ cần có một nơi trú chân và xin nhà vua cho phép họ ở trong các chuồng ngựa dưới đống đổ nát của đền thờ. Vua Baldwin II chấp thuận yêu cầu của những chiến binh ấy và các Hiệp sĩ tiếp quản nơi cư trú tồi tàn bên trong miếu thờ tan hoang.
Pháo đài của các hiệp sĩ Templar đuợc xây dựng từ năm 1160 (Convent of Christ Castle ở Tomar, Bồ Đào Nha)
Các Hiệp sĩ tin rằng những tài liệu mà Tu viện Sion tìm kiếm được chôn sâu dưới đống đồ nát - bên dưới Tối Linh Điện, một căn phòng thiêng liêng mà người ta tin rằng đích thân Chúa ngự ở đó. Nói theo nghĩa đen, đây đích thị là trung tâm của tín ngưỡng Do Thái. Trong gần một thập kỉ sống trong đống hoang tàn đó, chín Hiệp sĩ đã đào xuyên qua lớp đá cứng trong bí mật tuyệt đối. Mất chín năm, nhưng cuối cùng các Hiệp sĩ cũng thấy cái mà họ tìm kiếm. Họ mang kho báu đó ra khỏi đền thờ về châu Âu, nơi mà ảnh hưởng của họ dường như trở nên vững chắc chỉ qua một đêm.
Pope Innocent II (Thời gian giữ chức Giáo Hoàng từ 14/2/1130 đến 24/12/1143)
Không ai biết chắc các Hiệp sĩ có tống tiền Vatican hay không, hay đơn giản là Nhà Thờ đã tìm cách mua sự im lặng của họ, nhưng thực tế là Giáo hoàng Innocent II ngay lập tức đã ra một sắc lệnh chưa từng có ở một thời Giáo hoàng nào trước đó là chấp nhận quyền lực vô hạn độ của các Hiệp sĩ Templar và tuyên bố họ "là luật với chính họ" một đội quân độc lập không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào từ đức vua đến giáo chủ, cả tôn giáo lẫn chính trị.
Với toàn quyền hành động mới được Vatican trao cho, tổ chức Hiệp sĩ Templar đã phát triển đến độ chóng mặt cả về số lượng lẫn sức mạnh chính trị, vơ vét những khu đất rộng lớn ở hơn chục quốc gia. Họ bắt đầu cho đám hoàng thân quốc thích bị vỡ nợ vay tiền và lấy lãi, bằng cách đó, họ lập nên những nhà băng hiện đại và làm tăng thêm của cải cũng như ảnh hưởng của họ.
Pope Clement V (Thời gian giữ chức Giáo Hoàng từ 05/06/1305 đến 20/04/1314)
Vua Philippe IV (Pháp )
Vào thế kỷ 14, sự công nhận của Vatican đã giúp các Hiệp sĩ Templar nắm được quyền lực lớn đến nỗi Giáo hoàng Clement V quyết định phải làm một cái gì. Cùng bàn thảo với đức vua Pháp Philippe IV, Đức Giáo hoàng đã hoạch định một chiến dịch tài tình để thủ tiêu các Hiệp sĩ Templar và tịch thu của cải của họ, và cuối cùng là kiểm soát những bí mật đã chi phối toà thánh Vatican. Trong một cuộc điều binh khiển tướng không thua gì CIA, Giáo hoàng Clement đã gửi mật lệnh có dấu niêm phong để các chiến binh của ngài trên khắp châu Âu mở cùng một lúc vào ngày thứ sáu, ngày 13 tháng 10 năm 1307.
Các Hiệp sĩ Templar của giáo phái Sion bị bắt và bị thiêu sống do chủ mưu của Giáo Hoàng cùng Vua (Bản vẽ 1480)
Rạng đông ngày mười ba, niêm phong được mở và nội dung kinh hoàng của sắc thư được tiết lộ. Sắc thư của Giáo hoàng Clement nói rằng Chúa đã hiện hình báo mộng cho ngài biết rằng đám Hiệp sĩ Templar là những kẻ dị giáo phạm các tội trọng: thờ phụng quỷ dữ, đồng tính luyến ái làm ô uế thánh giá, kê dâm, và nhiều hành vi báng bổ khác. Giáo hoàng Clement đã được Chúa yêu cầu thanh thông trái đất bằng cách quây bắt tất cả bọn Hiệp sĩ Templar và tra tấn chúng cho đến khi chúng thú nhận những tội chống lại Chúa của chúng.
Chiến dịch xảo quyệt của Clement đã diễn ra với sự chính xác của đồng hồ. Vào ngày hôm đó, không thể đếm xuể những Hiệp sĩ Templar đã bị bắt giam, tra tấn một cách tàn nhẫn và cuối cùng bị thiêu trên cọc gỗ như những kẻ dị giáo. Tấm thảm kịch này còn để lại dư âm trong văn hoá hiện đại; cho tới nay, thứ sáu ngày mười ba vẫn bị coi là ngày không may mắn.
Phụ nữ cũng bị thiêu sống
Tu viện Sion tin rằng Constantine và những người nam kế tục ông ta đã cải giáo thành công thế giới từ chế độ mẫu hệ ngoại giáo sang chế độ Cơ đốc giáo phụ hệ bằng cách phát động một chiến dịch tuyên truyền, biến những tính nữ linh thiêng thành ma quỷ, xoá sạch vĩnh viễn những nữ thần khỏi tôn giáo hiện đại
Những người bị Nhà Thờ coi là "phù thuỷ" bao gồm tất cả các nữ học giả, các nữ tu, đám di-gan, đám thần bí, những kẻ tôn thờ thiên nhiên, tìm hái dược thảo và bất kỳ phụ nữ nào "hoà hợp một cách đáng ngờ với thế giới tự nhiên". Các bà đỡ cũng bị giết vì tội thực hành dị giáo khi sử dụng những hiểu biết y học để làm dịu những cơn đau đớn khi sinh nở , một sự đau đớn mà Nhà Thờ khẳng định là hình phạt thích đáng của Chúa về việc Eva ăn vụng trái cấm, sinh ra ý niệm Tội Tổ Tông Truyền. Trong suốt ba trăm năm săn tìm phù thuỷ, Nhà Thờ đã xử trên dàn thiêu một con số kinh hoàng là năm triệu phụ nữ.
Tuyên truyền và biển máu đã có hiệu quả.
Thế giới ngày nay là bằng chứng sống.
Nữ giới, xưa đã từng được tôn vinh như là một phần nửa chủ yếu của linh tuệ, giờ bị trục xuất khỏi những đền thờ của cả thế giới.
Nguồn:
- Wikipedia
- Sách: "The Holy Blood and The Holy Grail" của Henry Lincoln, Michael Baigent, and Richard Leigh ; "The Da Vince Code" của Dan Brown (chương 37)
(Nora Lãng Du sắp xếp ý và hình sưu tầm )
No comments:
Post a Comment