Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu đã theo chân người Hoa di dân đến Việt Nam từ hàng trăm năm trước.
Trong suốt hàng trăm năm qua, kể từ những người Hoa đầu tiên vượt biển di dân từ quê hương mình đến nước ta để lập nghiệp, tạo dựng một cuộc sống mới thì họ cũng mang theo không ít nét đặc trưng của nền văn hóa phương Bắc, góp phần làm phong phú hơn cho nền văn hóa nước Nam. Trong đó, các tín ngưỡng thờ phụng thần linh tuy cầu kỳ, nhuốm màu huyền sử nhưng lại đặc sắc hơn cả.
Và tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu, hiện vẫn được đông đảo người Việt, nhất là khu vực Nam Bộ và những gia đình người Việt gốc Hoa sùng bái hàng ngày cũng bắt nguồn từ chính lý do trên. Tuy nhiên, nói vậy nhưng không phải ai cũng biết Bà Thiên Hậu được nhiều sử liệu ghi lại là một nhân vật có thật vào đời nhà Tống tại Trung Hoa.
Bà Thiên Hậu có thật trong lịch sử và những tài phép màu nhiệm
Theo học giả Vương Hồng Sển thì Bà Thiên Hậu vốn có tên thật là Lâm Mặc Nương, sinh ngày 23/3/1044, tại đảo Mi Châu, Phúc Kiến. Bà được mẹ mang thai tới 14 tháng mới sinh bà ra đời, điều này được xem là một chuyện vô cùng lạ lùng trên đảo. Tuy nhiên, lạ lùng hơn là sau khi ra đời ít lâu, những năm tháng tuổi còn nhỏ, Lâm Mặc Nương liền bộc lộ khả năng thiên bẩm của mình ở lĩnh vực thiên văn khi thường xuyên nhìn sao trời đoán thời tiết, giúp đỡ dân chúng ngư phủ trong vùng.
Bức họa vẽ Bà Thiên Hậu cùng hai ác thần được bà cảm hóa.
Và trong một lần, khi đang cùng cha và hai anh trên thuyền để đi bán muối ở tỉnh Giang Tây, nửa đêm đó thuyền của gia đình Lâm Mặc Nương gặp nạn, cha bà và hai anh bị sóng biển cuốn trôi. Tuy nhiên, trong lúc ngủ, nhận thấy nguy hiểm bà liền xuất thần để cứu cha và các anh của mình. Đáng tiếc là bà chỉ cứu được hai anh, còn cha thì bị cuốn đi mất dạng. Từ đó, chuyện lạ về khả năng màu nhiệm này của Lâm Mặc Nương đã loan đi xa khiến Lâm Mặc Nương vô tình trở thành vị nữ thần được nhiều ngư dân tôn sùng. Họ thường xuyến khấn vái bà trong những lúc tàu thuyền gặp nguy nan.
Tượng Bà Thiên Hậu.
Ngoài ra, cũng có nhiều sử liệu khác ghi chép về cuộc đời bà, cũng gần giống như trên chỉ khác về năm sinh (những tài liệu này ghi bà sinh năm 960) và khả năng huyền diệu của bà còn vượt xa hơn. Chẳng hạn như việc năm 16 tuổi, Lâm Mặc Nương lượm được 2 miếng "Đồng phù" ở dưới giếng nước và tập luyện theo, nên trở thành có phép lạ và nổi danh từ đó qua những sự việc được cứu người vượt biển và thu phục và cảm hóa các vị ác thần là Thuận Phong Nhĩ và Lí Thiên Nhãn. Ngoài ra bà còn thường dùng năng lực thần thánh của mình để cứu giúp dân, dạy dân dùng rau rong biển cứu đói, cầu mưa, treo chiếu làm buồm, giải trừ thủy tai – quái phong…
Trong các tài liệu này cũng ghi rõ, bà mất (hoặc thăng thiên về trời) ngày 9 tháng 9 năm 987 ở tuổi 28. Sau đó, bà cũng thường xuất hiện ở hạ giới để giúp dân chài các khu vực miền biển vượt qua tai ương gió bão. Người đời còn tin rằng bà là con gái Ngọc hoàng nên sau khi bà mất liền cho dựng miếu thờ, gọi là miếu Ma Tổ (Mazu).
Đây là tượng Bà Thiên Hậu thường thấy nhất trong các miếu, đền chùa ở Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu du nhập vào Việt Nam theo dòng di dân đầu tiên của người Hoa từ hàng trăm năm trước
Triều đình nhà Tống cũng nghe danh về sự linh ứng và quyền năng thần tiên của bà liền sắc phong cho bà là "Thần nữ", "Nam Hải thần nữ". Đến đời Tống Cao Tông, Hoàng đế đã sắc phong bà là "Sùng Linh Huệ Chiêu Ứng Phu nhân". Đời Nguyên Thế Tổ phong bà là "Hộ Quốc Linh Trước Thiên Phi". Sau gia phong "Thiên Hậu" vào đời Khang Hy (nhà Thanh).
Cũng chính vì được triều đình sắc phong như thế nên từ đó muôn dân càng thêm tin tưởng về sự huyền diệu của Thiên Hậu. Ai ai cũng sùng bái bà và lập nhiều miếu thờ. Họ còn tổ chức nhiều lễ hội thường niên để cảm tạ công ơn của bà. Lâu dần, thờ phụng Thiên Hậu trở thành tín ngưỡng dân gian nổi tiếng nhất Trung Hoa. Nó đã tồn tại trong mối dung hòa với Đạo giáo, Phật giáo và quan hệ thỏa hiệp với Nho giáo, góp phần tạo nên diện mạo văn hóa Hoa Nam rất đặc sắc kéo dài cho đến hiện tại.
Tượng Bà Thiên Hậu.
Rồi theo dòng lịch sử hưng suy, đến thời nhà Minh – Thanh, tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu đã theo chân những người hoa đầu tiên di dân xuống phương Nam theo đường biển. Chính xác là khu vực miền Nam Việt Nam. Bởi khi đi tàu thuyền họ luôn giữ một khu vực trang trọng để thờ phượng nhang đèn cho bà, cầu mong mưa thuận gió hòa, chuyến di dân tìm vùng đất mới thật thuận lợi.
Đặc biệt vào cuối thế kỷ 19, khi các hiệp ước Pháp – Thanh năm 1885 và 1886 đã mở ra nhiều cơ hội để người Hoa di dân đến Việt Nam. Đồng bào người Hoa đã có mặt ở hầu hết khắp nơi ở khu vực Nam Bộ, từ Đồng Nai, Đề Ngạn (Chợ Lớn), Mỹ Tho, Vĩnh Long, bán đảo Cà Mau… họ cùng chung sống chan hòa với các cộng đồng bản địa gồm Việt, Khmer và Chăm, chung tay tạo dựng một nền văn hóa Nam Bộ thật đặc sắc với các miếu mạo thờ Quan Công và Bà Thiên Hậu được dựng lên khắp nơi nơi.
Chùa bà Thiên Hậu tại Quận 5, TP.HCM.
Về sau, người Việt gốc Hoa còn thờ Bà Thiên Hậu thêm chức năng bảo an, ban phát phúc lộc, thịnh vượng, đặc biệt là hộ mệnh cho trẻ sơ sinh.
Hiện tại, có thể nói, bất kỳ vùng đất nào ở Nam Bộ đều có miếu Thiên Hậu với nhiều tên gọi như: Chùa Bà, Chùa Thiên Hậu, Thiên Hậu Cung hay miếu Thiên Hậu. Riêng vùng Bạc Liêu, Cà Mau còn gọi Thiên Hậu là Mã Châu (Mazu), do vậy miếu Thiên Hậu còn gọi là Chùa Bà Mã Châu. Vùng Sóc Trăng thì gọi Thiên Hậu theo cái tên nguyên thủy là Ma Tổ. Tượng thờ bà ở đây cũng mang đậm nét ảnh hưởng từ Macau và Đài Loan với gương mặt đen với tay cầm lệnh bài đưa ngang vai.
Tượng Bà Thiên Hậu theo phong cách Macau, Đài Loan.
Lễ hội vía của Bà Thiên Hậu cũng được người dân khu vực miền Nam tổ chức trang trọng trong hai ngày 22 và 23 tháng ba âm lịch với nhiều công đoạn cầu kỳ như tục tắm tượng, thay xiêm y cho Thiên Hậu, rước kiệu Bà, múa lân, múa rồng… Ngoài ra, cộng đồng người Việt gốc Hoa còn giữ nhiều phong tục đặc sắc hơn như hát Triều, hát Quảng, biểu diễn côn khúc. Riêng miếu Tuệ Thành ở Sài Gòn tổ chức thêm lễ khai ấn để cầu quốc thái dân an trong năm mới. Hay tại miếu Thiên Hậu ở Bình Dương, người Hoa Phúc Kiến có tổ chức múa hẩu.
Lễ hội rước kiệu Bà Thiên Hậu tại Bình Dương.
Thậm chí, gần giống như tục vay tiền Bà Chúa Kho của nhiều người dân phía Bắc, ở miền Nam, cộng đồng người Việt gốc Hoa và người Việt cũng có tục "vay tiền" Bà Thiên Hậu vào ngày rằm tháng Giêng (tết Nguyên tiêu ở người Hoa, tết Thượng nguyên ở người Việt) và "trả tiền vay" vào các tháng cuối năm.
(Nguồn: Tài liệu khoa Văn hóa học trường Đại học KHXH & NV, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, sách "Nữ thần và thánh mẫu Việt Nam" của NXB Thanh Niên)
No comments:
Post a Comment