Những tấm gương xưa
Tục ngữ có câu:
- Lưỡi không xương nhiều đường lắc léo.
Vì nhiều đường lắc léo, nên rất lợi hại.
Để diễn tả sự lợi hại của vật không xương kia, người Tây Phương thường nói :
- Lưỡi của Esope (Langues d Esope)
- Esope là ai mà có lưỡi lợi hại đến nỗi thành tục ngữ ?
- Là một danh nhân Hy Lạp sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước kỷ nguyên Thiên Chúa.
Esope là một nô lệ được giải phóng.
Chủ là Xanthos sai Esope đi chợ và dặn :
- Hãy mua món gì ngon nhất .
Esope mua toàn lưỡi. Hỏi vì sao. Đáp:
- Ở trên đời không có gì tốt hơn lưỡi. Đó là mối dây đoàn kết của xã hội, chìa hoá của khoa học, cơ quan của lý luận, của luân lý, của thành tín ..
Để bắt bí Esope, hôm sau Xanthos sai đi chợ nữa và dặn:
- Hãy mua món gì dở nhất.
Esope cũng mua toàn lưỡi . Hỏi vì sao. Đáp:
- Ở đời không còn có gì xấu hơn lưỡi. Đó là mẹ đẻ của kiện cáo, nguồn gốc của chia rẽ, của giặc giã, quê hương của ngụy biện, của vu cáo, của hành vi bất tín bất thành ...
Do câu chuyện đó mà có thành ngữ " Lưỡi của Esope" kia.
Esope đã chia ra hai thứ lưỡi là lưỡi tốt và lưỡi xấu.
Lưỡi tốt mọc nơi miệng người quân tử, vị tha.
Lưỡi xấu mọc nơi miệng kẻ tiểu nhân, ích kỷ.
Gươm Trạm Lư, gươm Bàn Dĩnh, gươm Ngư Trưòng có tiếng là chặt sắt như chặt bùn, nhưng vẫn chưa bén bằng lưỡi bọn tiểu nhân ích kỷ, bình sanh chỉ biết có lợi và danh. Và gươm dù bén đến đâu cũng không nguy hiểm, không tai hại bằng lưỡi những phường danh lợi, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình. Bởi vì gươm chỉ chém thẳng một đường, còn lưỡi kẻ tiểu nhân uốn bên này cũng được, uốn bên kia cũng được.
Trong sách Hàn Phi Tử có câu chuyện rằng:
Có một người ở nước Sở vừa bán thuẫn vừa bán mâu.
Ai hỏi mua thuẫn thì anh ta khoe:
- Thuẫn này rất chắc, không gì đâm thủng.
Ai hỏi mua mâu thì anh lại khoe:
- Mâu này thật sắc đâm gì cũng thủng.
Một người nghe khoe, bèn hỏi :
- Thế bây giờ lấy mâu của bác đâm vào thuẫn của bác thì sao ?
Đố bà con biết anh ấy trả lời thế nào ?
Sách không thấy nói. Nhưng tôi đoán chắc rằng anh ấy xoa tay cười hì hì và đáp :
- Thì bác phải mua thử cả hai thứ, đem về nhà thí nghiệm tất thấy rõ .
Lưỡi của anh chàng nước Sở đó kể cũng đã lắc léo. Song kể cũng không có hại bao nhiêu và cũng không có gì là ác . Tấc lưỡi Đặng Tích sau đây mới thật là thâm độc không lường.
Đặng Tích là một nhà luật pháp có tiếng thời Xuân Thu, làm quan đại phu nước Trịnh.
Một năm nước sông Vỹ lên to. Một người nhà giàu ở gần sông không may bị chết đuối. Có kẻ vớt được xác. Thân nhân nhà giàu đến xin chuộc. Kẻ kia đòi quá nhiều tiền. Thân nhân người giàu không chịu, đem chuyện thưa cùng Đặng Tích, Đặng Tích bảo:
- Cứ để yên. Hắn còn bán xác ấy cho ai được mà sợ .
Thân nhân người bị nạn theo lời.
Kẻ vớt được xác không thấy thân nhân người bị nạn đến nữa, lấy làm lo cũng đem chuyện thưa cùng Đặng Tích, Đặng Tích cũng đáp:
- Cứ để yên. Hắn còn mua xác được của ai mà sợ.
Kẻ vớt xác cũng theo lời.
Thành ra xác chết bị thúi!
Lưỡi của Đặng Tích làm hại đến cả người chết !
Lưỡi xấu mà mọc vào miệng những kẻ ít tài ít trí, thì cái hại cho đời có ít. Nếu rủi mọc vào miệng những người có nhiều khả năng thì đời sẽ sanh nhiều tai nạn, khả năng của người có lưỡi xấu nhiều bao nhiêu, tai nạn lưỡi gây cho đời cũng nhiều bấy nhiêu. Như lưỡi của Trương Nghi là một.
Trương Nghi là một tay du thuyết đại tài thời Chiến Quốc.
Thời Chiến Quốc là một thời tao loạn. Chánh lệnh của nhà Châu không còn được tuân phụng. Các nước chư hầu luôn luôn gây sự. để thôn tính lẫn nhau. Lần lần bị diệt hết chỉ còn bảy nước là Tần, Sở, Tề, Yên, Triệu, Nguỵ, Hàn gọi là Thất Hùng. Mỗi nước hùng thị một phương. Nhưng địa thế nước Tần thắng lợi hơn cả cho nên các nước thường bị Tần uy hiếp.
Để chống lại nước Tần, Tướng quốc Triệu là Tô Tần xướng lên thuyết Hợp Tung, liên kết sáu nước lại thành một khối, giúp đỡ lẫn nhau, che chở lẫn nhau.
Khi mới bắt đầu, Tô Tần sợ Tần đem binh đánh thì kế hoạch liên hiệp phải thất bại, bèn sai người tâm phúc là Giả Xá Nhân đi tìm Trương Nghị
Khi mới bắt đầu, Tô Tần sợ Tần đem binh đánh thì kế hoạch liên hiệp phải thất bại, bèn sai người tâm phúc là Giả Xá Nhân đi tìm Trương Nghị
Trương Nghi vốn cùng Tô Tần là bạn đồng môn, học trò Quỉ Cốc.
Sau khi giã thầy giã bạn, Trương Nghi về nước Ngụy, đến cầu thân cùng Ngụy Huệ Vuơng, nhưng Huệ Vương không dùng. Trương Nghi phải dắt vợ con sang Sở. Tướng quốc nước Sở là Chiêu Dương thấy Trương Nghi nói năng hoạt bác liền thu dùng làm môn hạ. Kế đó Chiêu Dương đem quân đánh Ngụy lấy được bảy thành Tương Lăng, Sở Uy Vương thưởng cho viên Ngọc Bích họ Hoà. Chiêu Dương rất quí, đi đâu cũng đem ngọc theo bên mình .
Một hôm Chiêu Dương cùng tân khách và môn đệ hơn trăm người ra chơi ở Xích Sơn, bày tiệc rượu mua vui. Rượu ngà ngà say, tân khách xin Chiêu Dương cho xem viên Ngọc Bích. Chiêu Dương lấy ngọc để lên bàn, năm sắc óng ánh. Mọi người đều vui mừng rồi thay nhau cầm xem. Chợt viên ngọc biến mất, tìm mãi không thấy. Trong đám tân khách và môn đệ theo hầu Chiêu Dương, Trương Nghi là người nghèo khó nhất, nên bị tình nghi là kẻ lấy trộm ngọc. Chiêu Dương truyền đem tra vấn.
Trương Nghi vốn không phải kẻ lấy ngọc, nên nhất định không chịu nhận lời buộc tội. Bọn môn hạ đánh Trương Nghi đến chết ngất rồi kéo bỏ ngoài gò. Có người thương Nghi bị đánh oan, mới vực đem về nhà. Người vợ trông thấy đau lòng, nói:
- Bởi chàng theo đuổi việc đọc sách và du thuyết nên mới bị nhục. Nếu ở nhà lo cày cuốc làm ăn thì đâu đến nỗi này.
- Bởi chàng theo đuổi việc đọc sách và du thuyết nên mới bị nhục. Nếu ở nhà lo cày cuốc làm ăn thì đâu đến nỗi này.
Trương Nghi há mồm hỏi vợ :
- Cái lưỡi ta có còn chăng ?
Người vợ tức cười đáp:
- Còn.
Trương Nghi nói:
- Lưỡi còn tức là tiền của đó. Nàng chớ lo rằng mãi khốn cùng.
Đoạn nghỉ dưỡng sức ít lâu, rồi dắt vợ con sang nước khác. Giữa đường nghe tin Tô Tần đã được vua Triệu phong là Tướng quốc, Trương Nghi toan sang Triệu thì gặp Giã Xá Nhân. hai bên làm quen rồi cùng nhau sang Triệu.
Đến Triệu, Trương Nghi đưa danh thiếp vào xin yết kiến Tô Tần, nhưng không được Tô Tần tiếp. Trương Nghi vừa giận vừa buồn, muốn bỏ đi nơi khác, nhưng vì tiền lưng đã cạn, cực chẳng đã phải ở nán lại. Sau Tô Tần cho gọi vào, đưa mắt lạnh nhạt hỏi:
- Quí huynh vẫn được bình yên đấy chứ ?
Trương Nghi, khí tức đầy ruột, lặng thinh không đáp.
Chợt lính hầu vào bẩm dâng cơm trưa. Tô Tần bảo Trương Nghi:
- Việc quan bận rộn, phiền quí huynh đợi ít lâu. Bây giờ xin mời bửa cơm đạm bạc.
Nói rồi truyền dọn cơm dưới công đường đãi Trương Nghi, còn Tô Tần thì ngồi ăn trên cao. Mâm cơm trên lại ê hề cao lương mỹ vị, còn mâm cơm dưới thì chỉ có rau cùng tương. Trương Nghi tức giận bỏ về.
Nói rồi truyền dọn cơm dưới công đường đãi Trương Nghi, còn Tô Tần thì ngồi ăn trên cao. Mâm cơm trên lại ê hề cao lương mỹ vị, còn mâm cơm dưới thì chỉ có rau cùng tương. Trương Nghi tức giận bỏ về.
Đương khi bực tức thì gặp lại Giã Xá Nhân, Trương Nghi liền đem nỗi nhục nhã của mình kể lại. Giã Xá Nhân liền rủ Trương Nghi sang Tần. Trương Nghi mừng rỡ, nói:
- Trong bảy nước chỉ có Tần là mạnh hơn cả. Sức Tần đánh thắng Triệu dễ như chơi. Nếu tôi sang Tần mà được đắc dụng, thì quyết đem quân đánh Triệu để báo thù Tô Tần.
Giả Xá Nhân nói :
- Tôi có người bạn quen làm quan lớn ở Tần. Tôi sẽ tìm cách cho tiên sinh tiến thủ.
Trương Nghi liền cùng Giã Xá Nhân kết làm anh em, rồi cùng nhau lên đường.
Đến Tần, Giã Xá Nhân bỏ tiền đút lót cho những kẻ thân cận vua Tần, xin tiến cử Trương Nghi.
Trương Nghi liền cùng Giã Xá Nhân kết làm anh em, rồi cùng nhau lên đường.
Đến Tần, Giã Xá Nhân bỏ tiền đút lót cho những kẻ thân cận vua Tần, xin tiến cử Trương Nghi.
Vua Tần là Huệ Văn Vương nghe kẻ tả hữu bàn về Trương Nghi, liền cho đòi vào yết kiến. Trương Nghi vào cùng nhà vua bàn việc chư hầu, miệng lưỡi như suối. Vua Tần đắc ý, phong Trương Nghi là Khách Khanh.
Sau Trương Nghi được hiển đạt, Giã Xá Nhân từ biệt xin đi. Trương Nghi ứa nước mắt, nói:
- Trước đây tôi bị cùng khốn, nhờ ngài trợ giúp mới có ngày nay. Tôi chưa kịp báo ơn sâu, sao ngày lại vội bỏ tôi như thế ?
Giã Xá Nhân đáp:
- Ơn ấy đâu phải của tôi. Tôi chỉ là kẻ thừa hành của Tô Tướng Quốc.
Trương Nghi ngạc nhiên, hỏi:
- Ngài bỏ vàng bạc ra giúp tôi nên sự nghiệp, cớ sao lại nói đến Tô Tần?
Xá Nhân nói;
- Tô Tướng Quốc chủ trương thuyết liên hiệp chư hầu. Trong lúc chưa thành hình, sợ Tần đem quân sang đánh Triệu, làm hỏng kế hoạch, nên phải tìm người tâm phúc, đến cầm quyền hành chính nước Tần. Việc ấy ngoài Tiên Sinh ra , còn ai làm nổi. Vì vậy mới sai tôi đi tìm Tiên Sinh, lại sợ Tiên Sinh lấy địa vị nhỏ nhặt làm thỏa mãn, nên cố ý ngược đãi để Tiên Sinh quyết chí sang Tần. Tướng Quốc lại đưa cho tôi nhiều vàng bạc để cung ứng cho Tiên Sinh đắc dụng ở Tần. Nay Tiên Sinh đã được đắc dụng, nhiệm vụ tôi đã hết, nên tôi phải về bẩm cho Tướng Quốc hay.
Trương Nghi thở dài :
Trương Nghi thở dài :
- Lâu nay ta nằm trong chiến thuật dịch vận của Tô Tần mà không biết. Tài năng ta thật không sánh kịp Tô Tần ! Xin phiền Ngài trở về chuyển lời tôi cám ơn Tô Tần. Và để báo ân Tô Tần đã giúp tôi nên sự nghiệp, tôi sẽ không bàn đến chuyện đánh Triệu.
Nhờ vậy mà thuyết Hiệp Tung của Tô Tần thực hiện được, khiến thiên hạ được yên ổn trong một thời gian.
Nhưng rồi Trương Nghi xướng ra thuyết Liên Hoành, đi du thuyết các nước, làm tan rã khối liên minh. Các nước trở lại đánh nhau không ngớt. Vì binh đau mãi, nước nào cũng trở nên nghèo đói . Nước Tần thừa cơ thôn tính dần dần hết.
Tai hại thay ba tấc lưỡi của Trương Nghi.
Những người dùng miệng lưỡi mình, trí óc mình để làm hại kẻ khác, làm lợi cho mình, nhiều khi hại người chưa thấy đâu, mà cái hại lại quay ngay vào mình trước. Như trường hợp anh thầy kiện trong sách Duyệt Vi. Rằng:
Ngày xưa có một thầy kiện rất giỏi. Mỗi khi thảo đơn kiện cho ai, định buộc tội, gạt lỗi, mà ý nghĩ chưa được sâu sắc, lời nói chưa được chặt chẽ, thì cứ muốn ngồi yên một chỗ để cấu tứ. Những lúc ấy thường dặn nguời nhà không được làm ồn, khách đến không tiếp, cả vợ cũng phải tránh đi nơi khác.
Người vợ thầy kiện vốn có tình cùng người láng giềng, mới nghĩ ra được một diệu kế : những khi thầy kiện cấu tứ, chị ta cứ lại chuyện trò quấy rối. Thầy kiện tức mình đến phải mắng và đuổi sang nhà khác. Thế là những khi thầy kiện cấu tứ thì người vợ đi sang láng giềng ân ái cùng tình nhân. Kể hàng bao nhiêu năm mà thầy kiện không hay biết.
Sau thầy kiện vì cấu tứ mãi mà chết. Người vợ chửa hoang, bị nhà chồng kiện. Quan tra xét căn do. Vợ thầy kiện thú thật. Quan vỗ bàn, thở dài:
- Ngòi bút, chót lưỡi của thầy kiện đã khéo, ai ngờ cơ trời còn khéo hơn.
(Sưu tầm trên mạng)
No comments:
Post a Comment