Saturday, September 17, 2022

CAO TĂNG CHỈ LÊN TRỜI, SAU ĐÓ CHỈ CHAI NƯỚC DƯỚI ĐẤT, NHÀ THƠ THẤY VẬY VIẾT LÊN CÂU THƠ NỔI TIẾNG

Trong dải ngân hà chói lọi của thơ ca, thơ triết học được coi là ngôi sao sáng nhất vẫn luôn tỏa sáng. Khác với các thể loại thơ khác, thơ triết học thường ẩn chứa những triết lý nhân sinh sâu sắc và sự cảm nhận về thế giới nhân sinh quan, khi đọc thơ triết học không chỉ mang lại những trải nghiệm cảm xúc đẹp mà còn học được triết lý sống tích cực và thú vị.

Thi sĩ luôn chọn cuộc sống ẩn dật để tìm đến cảnh giới của bậc Thánh nhân - Ảnh: Pinterest

Những bài thơ triết học thường liên quan đến những tăng nhân đã tham thiền và giác ngộ, ví dụ như Lý Thương Ẩn sau khi tìm hiểu về cuộc sống của các tăng nhân, ông đã viết một câu nổi tiếng: “thế giới vi trần lý, ngô ninh ái dữ tăng“. Ngụ ý rằng trong thế gian bụi trần này, ta hà cớ gì phải bận tâm đến yêu và hận.

Con người khi sống trên đời luôn chìm đắm trong biển sâu của yêu và hận, danh và lợi. Nhưng dưới góc nhìn của tạo hóa, vạn vật trên đời đều là cát bụi, con người cũng chỉ là cát bụi thôi, vậy thì sao phải rối ren trong cảm giác yêu và ghét, sao phải hận và thù?

Mặc dù giới văn nhân thời xưa đã tích cực giao lưu, học hỏi nhau, nhưng trong lòng họ lại ấp ủ một lý tưởng sống ẩn dật. Cuộc sống ẩn dật trên núi và thiền định của các nhà sư lại phù hợp với lý tưởng sống của giới văn sĩ. Cho nên trong lịch sử xưa nay giới văn nhân luôn thích đàm đạo với các tăng nhân.

Lý Thương Ẩn không phải là người duy nhất nhận ra triết lý nhân sinh của cuộc sống thông qua các cuộc đàm đạo. Lý Cao một nhà thơ ở thời trung Đường, cũng đã viết bài thơ “tặng Dược Sơn cao tăng Duy Nghiễm”, sau này cũng rất được các thế hệ ca tụng:

Luyện đắc thân hình tự hạc hình,
Thiên châu tùng hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết,
Vân tại thanh thiên thuỷ tại bình.

煉得身形似鶴形
千株松下兩函經
我來問道無餘說
雲在青天水在瓶

Dịch thơ:

Tu luyện thân hình như dáng hạc
Dưới thông ngàn gốc, hai hòm kinh
Đáp lời hỏi Đạo, không thừa chữ:
"Mây tại trời xanh, nước ở bình"


Dược Sơn nằm ở Hồ Nam, ngọn núi này rất linh thiêng, thiền sư Duy Nhiễm đã tu hành ở đây hơn 40 năm, biệt hiệu là Dược Sơn, ông là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của phái thiền tông, đệ tử của ông là Lương Giới Thiền Sư, người đã khai sáng Tào Động Tông một trong phái Thiền Tông Ngũ Diệp.

Lý Cao là môn nhân của Hàn Dũ và cũng là cháu rể của Hàn Dũ, khi làm quan ở Lang Châu, Hồ Nam, nghe danh thiền sư Duy Nghiễm đã lâu, rất muốn mời thiền sư Duy Nghiễm xuống núi để đàm đạo, nhưng thiền sư đều phớt lờ từ chối. Vì vậy Lý Cao chiếu cố đích thân leo lên núi Dược Sơn để yết kiến.

Thật không dễ mà leo lên được trên núi, thiền sư Duy Nghiễm đang ngồi dưới gốc cây tùng đọc kinh thư, như có vẻ không nhìn thấy Lý Cao, Lý Cao dù sao thì cũng là quan huyện, cũng phải giữ cho mình chút thể diện, nên ông phàn nàn rằng: “Nghe danh không bằng gặp mặt, bình thường ta nghe người khác nói thiền sư là người đạo đức cao thượng, không ngờ rằng, gặp rồi mới thấy chỉ như vậy thôi”.

Nghe xong, Thiền sư Duy Nghiễm đáp: “Tại sao quý vị coi trọng đôi tai và coi thường đôi mắt của mình?”. Tai và mắt có nên được đối xử giống nhau không? Ngay khi Lý Cao nghe được điều này, cảm thấy những lời thiền sư nói quả thực rất chân thực.


Tuy nhiên, vị thiền sư lại không nói gì, ông chỉ lên những đám mây trắng lơ lửng trên bầu trời, rồi chỉ vào một cái chai đựng đầy nước trên mặt đất, Lý Cao không hiểu ý của thiền sư muốn nói gì, thiền sư lại nói: “Vân tại thanh thiên thủy tại bình”.

Sau khi nghe đến đây, Lý Cao chợt ngộ ra, trong phòng tối như có ánh sáng đột nhiên chiếu vào, những suy nghĩ ban đầu bị phong bế ngay lập tức được khai mở, vì vậy ông đã viết bài thơ: “Tặng Dược Sơn cao tăng Duy Nghiễm“.

“Thân hình như chim hạc“. Câu đầu miêu tả tướng mạo của vị thiền sư lỗi lạc Duy Nghiêm. Hình ảnh như vậy gợi cho nhà thơ liên tưởng đến một con vật, đó là con hạc, nhà thơ dùng con hạc để miêu tả chính hình ảnh thiền sư, không chỉ làm nổi bật vẻ gầy gò của thiền sư mà còn phản ánh phong thái bất hủ của ông.

“Dưới tùng ngàn gốc, hai hòm kinh”, cuộc sốn đời thường của thiền sư là gì? nhà thơ đã chọn hai điển tích là “dưới ngàn thông” và “hai hòm kinh”. Hàng ngàn cây tùng phản ánh sự tĩnh lặng của môi trường sống của thiền sư.

Cây tùng còn tượng trưng cho bản lĩnh vững chắc và thanh cao của thiền sư. Cuộc sống thường ngày của thiền sư là đọc kinh và thực hành thiền định, không cần đồ đạc sang trọng, trang trí lộng lẫy, chỉ dùng hai hộp đựng kinh sách làm bạn đồng hành.

“Đáp lời hỏi Đạo, không thừa chữ: “Mây tại trời xanh, nước ở bình“.

Hai câu cuối mô tả kinh nghiệm vấn Đạo của nhà thơ và đáp Đạo của thiền sư. Tuy bài thơ đã kết thúc, nhưng quan niệm nghệ thuật cũng như tiếng chuông chùa âm vang ngân nga, âm hưởng của Thiền vẫn văng vẳng bên tai.


“Mây tại trời xanh, nước ở bình“, là câu thơ sáng nhất của bài, khiến người đời sau ca tụng, vậy câu này có ý nghĩa gì, thiền sư muốn diễn đạt điều gì?.

Mây trên trời và nước trong bình là những thứ tồn tại trong tự nhiên, mây bay trên trời là lẽ tự nhiên, nước trong bình cũng là lẽ tự nhiên. Đạo vốn dĩ là tự nhiên, muốn hiểu về Đạo thì hãy trải nghiệm và cảm nhận nó ngay trong cuộc sống bình thường.

Vạn vật đều phải thuận theo tự nhiên, con người cũng không ngoại lệ. Vị thiền sư nói như vậy là vì Lý Cao trước đây đã nói “Nghe danh không bằng gặp mặt”, để bày tỏ nỗi bực tức của ông khi thấy Duy Nghiêm tỏ ra coi thường mình. Trên thực tế, dù là mây trên trời hay nước trong bình, mọi thứ trên đời đều bình đẳng như nhau.

Bản chất của con người giống như nước, tình cảm giống như cát, cát sẽ làm vẩn đục nước, và tình cảm sẽ làm cho con người mất đi bản chất của mình.

"Mùi thiền đứng tuổi mới ham
Về già ở cạnh núi Nam tu hành
Hứng đi lủi thủi vong tình
Thú vui chỉ có một mình mình hay

Ngồi nhìn những lúc mây bay
Đi theo suối nước tới ngay chỗ cùng
Đường rừng chợt gặp lão ông
Vui cười trò chuyện quên không trở về."

Thiền định là phương pháp tu luyện, đạt đến cảnh giới giác ngộ – Ảnh: Internet

Giống như Vương Duy, ông đã viết bài “Thú vui chỉ có một mình mình hay”. Bài thơ khắc họa hình ảnh một lão nhân tu luyện nơi núi sâu rừng già. Một ngày trên núi Nam, lão nhân lội ngược dòng suối tìm đến nơi đầu nguồn, men theo dòng chảy cho đến khi không còn thấy gì nữa. Lão nhân ngồi xuống, nhàn nhã ngắm trời đất, thấy trên đỉnh núi từng áng mây tuôn ra như suối chảy.

Thì ra nước dưới đất chỉ là nước, nhưng khi lên trời sẽ biến thành mây, mây lại rơi xuống trở thành mưa, mưa biến suối khô thành dòng nước, nước ấy lại lên trời thành áng mây bay… Cuộc đời là một vòng tuần hoàn, đông đi xuân đến, khổ qua rồi sẽ là niềm vui phấp phới. Đời người vốn dĩ là vậy, hà tất phải tuyệt vọng làm chi?

Nguyệt Hòa biên tập
Theo: Sohu