Friday, September 30, 2022

NĂM CĂN CỔ TỰ VÀ CẶP ĐÀN KỲ LẠ CỦA PHẬT SỐNG CỬ ĐA (KỲ I)

Tại thị trấn Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang có một ngôi chùa nghèo nằm khiêm tốn ven quốc lộ 91 được người dân địa phương gọi là Năm Căn Cổ Tự. Họ cho biết trước kia chùa lợp ngói âm dương, vách gỗ.

Một góc Năm Căn Cổ Tự.

Cách nay không lâu, do chùa mục nát, sư trụ trì đã cho xây sửa mới nên nét cổ kính không còn. Ít người biết rằng, trong ngôi chùa đó có một cặp đàn cổ kỳ lạ.

Đó là cặp đàn "kình ngư hóa long" và "thần cù nghênh pháp" được đặt trên bệ thờ tiền hiền nơi chánh điện. Cả hai đều được chế tác bằng gỗ, giống kiểu dáng của đàn độc huyền cầm. Tuy nhiên, chiếc đàn "kình ngư hóa long" chạm trổ theo tích "cá hóa rồng" có đến 9 dây (cửu huyền cầm) và chiếc đàn "linh cù nghênh pháp" chạm trổ theo tích "cá sấu nghe thuyết pháp" có 3 dây (tam huyền cầm).

Vị trụ trì đầu tiên của chùa là sư Thượng Quyền Hạ Tịnh, viên tịch năm Nhân Dần, tức 1902. Vị trụ trì thứ hai là Hòa thượng Thích Thiện Chí, viên tịch vào ngày 7-8-Tân tỵ, tức năm 1941 dương lịch. Vị trụ trì thứ 3 là Hòa thượng Thích Chánh Quới (không rõ năm viên tịch). Và sư Thích Thiện Phước là trụ trì đời thứ 5 của chùa. Tiểu sử ngôi cổ tự chỉ có vậy.

Cả hai chiếc đàn đều chế tác theo nguyên lý tạo âm của đàn độc huyền cầm: Gốc dây bắt vào trục điều chỉnh cao độ âm thanh, đầu dây bắt vào cần điều khiển giai điệu. Với cách chế tác như vậy, chắc chắn khi chơi, loại đàn này sẽ tạo ra âm điệu buồn du dương như đàn độc huyền cầm. Những bậc cao niên địa phương cho rằng, Phật sống Cử Đa chế tác loại đàn này không phải để giải trí mà để … chuyển hóa vũ trụ, xoay vần tạo hóa.

Theo nhiều tài liệu tôn giáo ở vùng đất thiêng Bảy Núi, Ông Cử Đa đã chọn cửa ngõ huyết mạch nối liền Cao Miên (Campuchia) đến Thiên Cẩm Sơn (núi Cấm) và Ngọa Long Sơn (núi Tượng) cất một cái miếu để thờ cặp đàn.

Chiếc đàn cửu huyền.

Thuở đó, vùng Ngọa Long Sơn là đại bản doanh của Đức Quản cơ Trần Văn Thành - Người chỉ huy căn cứ Bảy Thưa - Láng Linh kháng Pháp. Sau khi khởi nghĩa Bảy Thưa - Láng Linh thất bại, thực dân Pháp đốt ngôi miếu ấy rất nhiều lần. Cứ mỗi lần bị đốt, ngôi miếu lại được người dân cất mới. Điều kỳ lạ là cặp đàn bằng gỗ nhưng không bao giờ bị cháy trong những cơn hỏa hoạn ấy. Lần bị thực dân Pháp đốt cuối cùng nền miếu bị bỏ hoang khá lâu. Sau đó, một tín đồ Phật giáo hệ phái Thiền Lâm tìm đến đây cất trên nền miếu một ngôi chùa lá. Vị tu sỹ thấy cặp đàn vẫn còn nguyên vẹn đã đặt lên bệ thờ. Những bậc cao niên địa phương không liên kết được những điều đó với bất kỳ tài liệu lịch sử nào, chỉ biết rằng: Hồi trẻ thơ, nghe ông bà xưa kể vậy, giờ kể lại.

Năm 1840, ông Trần Văn Thành, quê quán ở ấp Bình Phú (Cồn Nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên dựa vào quân Xiêm La quấy rối biên giới Việt Nam. Trần Văn Thành được triều đình cử làm Suất đội đánh đuổi quân xâm lược Miên - Xiêm.

Năm 1845, sau khi lập được nhiều chiến công, Trần Văn Thành được ban khen “Quản cơ tinh binh” và thăng chức Chánh quản cơ, chỉ huy 500 quân, trú đóng ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam. Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục triều đình nhà Nguyễn nên cuối năm Đinh Mùi (1847), Trần Văn Thành xin giải ngũ về quê khẩn hoang làm ruộng và xin theo Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên học đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

Chiếc đàn tam huyền và bức tượng Phật Cử Đa cải biên thành đức Đạt Ma

Khi thực dân Pháp cưỡng chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, An Giang thất thủ, Trần Văn Thành qui tựu những tín đồ hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương lập nên đội quân khởi nghĩa Binh Gia Nghị. Trần Văn Thành tổ chức dân binh đắp ụ chiến đấu ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để ngăn quân Pháp. Tháng 6 năm 1868, Nguyễn Trung Trực đánh chiếm đồn Kiên Giang bị quân Pháp tổ chức phản công. Hay tin, Trần Văn Thành kéo quân đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá, đồng thời cắt cử quân sang Kiên Giang tiếp cứu. Vũ khí thô sơ không thể chống lại tàu chiến của Pháp, Nguyễn Trung Trực đành lui quân ra Hòn Chông, Kiên Lương, Kiên Giang cố thủ để bảo toàn lực lượng. Trần Văn Thành dẫn lực lượng kháng chiến của mình vào Láng Linh, Bãi Thưa (ngày nay thuộc huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) dựng trại, tuyển quân, rèn đúc vũ khí chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Trong thời gian này ông đã tổ chức ám sát tên Chủ tỉnh Vĩnh Long là Salicetti tại Vũng Liêm.

Cuối năm 1868, hầu hết các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đều bị Pháp đàn áp tan rã gần hết. Lực lượng nghĩa binh của Trần Văn Thành lâm vào thế cô và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã.

Trong khi quân Pháp được trang bị vũ khí hiện đại, sát thương tầm xa thì vũ khí của quân kháng chiến chủ yếu là gươm, giáo, mác sát thương tầm gần. E ngại nghĩa quân nhụt chí chiến đấu, Trần Văn Thành phải sử dụng niềm tin huyền thuật để hun đúc tinh thần. Khi này Đoàn Minh Huyên đã viên tịch. Trần Văn Thành đã cùng nhà sư Ngô Tự Lợi (Tức Đức Bổn sư Ngô Lợi) – Một chí sỹ yêu nước khoác áo cà sa – lập nên một tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lấy nền tảng giáo lý của Bửu Sơn Kỳ Hương để thuyết pháp thu phục tín đồ nhằm qui tựu quần chúng nhân dân tham gia kháng Pháp.

Bàn thờ tiền hiền ở Chánh điện

Ngô Lợi kêu gọi người dân tập trung về vùng thánh địa Láng Linh để “Khi trời đất xoay chuyển, những người sống trong vùng đất thánh sẽ tồn tại. Ai ở ngoài sẽ chịu nạn tai” hoặc “Đời Minh Hoàng được thành lập, ai không theo thì bị thú dữ, cọp beo trong rừng ăn thịt”. Đó là thời điểm Trần Văn Thành kể câu chuyện Đức Phật Thầy Tây An sai ngài đi cắm 5 cây thẻ bài trấn yểm theo địa thế "ngũ long trấn phục" ở 5 điểm. Điểm trung tâm đặt trên núi Cấm (hang Ông Thẻ). 4 điểm kia là cột mốc địa giới kháng chiến cách điểm trung tâm hàng chục cây số, bao quanh một khu vực rộng lớn thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên. 

(còn tiếp)

Nông Huyền Sơn