Tuesday, February 20, 2018

THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM

"Thương hoài ngàn năm", bài hát mà tôi nghe rất nhiều lần nhưng tối nay nghe lại trong chương trình "Tuyệt đỉnh song ca - Đêm chung kết" do Dũng Nhí và Hà Mi dựng lại như một đoạn kịch ngắn làm cho tôi rất cảm động và ngạc nhiên hơn khi biết bài hát do nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương sáng tác.


Phạm Mạnh Cương và “Thương hoài ngàn năm”

Phạm Mạnh Cương sinh ngày 30 tháng 7 năm 1933 tại Huế, là con thứ 5 trong một gia đình 9 anh em. Cha của ông là một người yêu thích cổ nhạc và biết sử dụng đàn và sáo. Từ nhỏ Phạm Mạnh Cương đã say mê âm nhạc Tây phương và yêu thích các ca khúc của Đoàn Chuẩn – Từ Linh. Ông đã học vỡ lòng nhạc lý với nhạc sĩ Ngô Ganh.

Sau khi thi đậu Tú tài ở Huế vào năm 1953, Phạm Mạnh Cương ra Hà Nội theo học Cao đẳng Sư phạm và Cử nhân văn khoa. Sau đó ông trở lại Huế và có hợp tác cùng đài Phát thanh của thành phố trong chương trình văn nghệ học sinh hàng tuần với vai trò thành viên một ban nhạc.

Năm 1954, Phạm Mạnh Cương một mình di cư vào miền Nam và từ năm 1955 ông bắt đầu dạy học ở trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho. Được 3 năm, ông chuyển về trường Petrus Ký, Sài Gòn và ở đó cho đến 1975.


Vào năm 1961, trong một dịp ra Huế chấm thi Tú tài 2, Phạm Mạnh Cương gặp Như Hảo, một thí sinh từ Đà Nẵng ra Huế dự thi. Một năm sau hai người thành hôn và vợ ông cũng là người hợp tác với ông trong những hoạt động âm nhạc trên đài truyền hình và truyền thanh với những chương trình mang chủ đề đặc biệt do Phạm Mạnh Cương khởi xướng.

Ca khúc đầu tay của ông là Nhạc chiều quê ký bút danh Nguyễn Thường được nhạc sĩ Thu Hồ trình bày nhiều lần ở đài phát thanh Pháp Á. Nhiều nhạc phẩm giai đoạn này của ông như Em tôi, Nữ sinh ca, Màu thời gian… tuy rất phổ biến ở Huế nhưng phải đến bản tango “Thu ca” viết năm 1953 ở Hà Nội thì tên tuổi Phạm Mạnh Cương mới thực sự được công chúng biết tới. Năm 1956, Phạm Mạnh Cương viết “Thương hoài ngàn năm”, ca khúc đầu tiên ông viết ở miền Nam. Nhạc phẩm này được ông lấy cảm hứng từ câu ca dao “Tóc mai sợi vắn sợi dài, lấy nhau chẳng được thương hoài ngàn năm”.

Trong vai trò sản xuất, Phạm Mạnh Cương là người sáng lập trung tâm băng nhạc Tú Quỳnh tại Sài Gòn, có thể coi như một trong những người đã đưa việc thực hiện băng nhạc vào lãnh vực kinh doanh. Dưới nhãn hiệu Tú Quỳnh với khoảng 20 băng nhạc được phát hành, đã quy tụ gần như tất cả những tiếng hát lớn như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Duy Trác, Sĩ Phú, Thanh Tuyền, Phương Dung. Sau đó là những Phương Hồng Hạnh, Julie Quang, Carol Kim, Thanh Lan…

Tháng 8 năm 1964, ông cộng tác với đài phát thanh Saigon điều khiển ban Hoa Thời Đại. Tháng 3 năm 1965, ông ngừng cộng tác với đài Saigon và chuyển sang cộng tác với ban Tiếng Hát Hậu Phương của đài Quân đội.


Trên lĩnh vực truyền hình, năm 1966 Phạm Mạnh Cương được đạo diễn Lê Hoàng Hoa mời thực hiện chương trình ca nhạc đầu tiên cho đài Truyền hình Việt Nam. Một năm sau chương trình này chính thức đổi thành “Chương trình Phạm Mạnh Cương” phát hình hàng tuần vào tối thứ bảy từ 9 đến 10 giờ và kéo dài hoạt động cho đến tháng 4 năm 1975.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Phạm Mạnh Cương ở lại Việt Nam. Đến năm 1980, ông cùng hai con vượt biển từ Cà Mau rồi định cư tại Montréal, Canada. Năm 1983, vợ ông và hai người con gái được đoàn tụ theo diện bảo lãnh, nhưng sau đó vài năm cuộc hôn nhân của họ tan vỡ.

Tại Montréal, ông thành lập ban nhạc Phạm Mạnh Cương, tham gia trình diễn và kinh doanh trong lĩnh vực vũ trường. Ông cũng chủ trương một nguyệt san lấy tên là Thẩm Mỹ.

Nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương tâm sự: “Hồi đi học, là tôi đã thích, đã mê nhạc lắm rồi. Tôi nhớ lúc còn đang đi học, trong nhà có một cái radio cổ lỗ sĩ mà cứ ráng bắt cho được những đài Pháp Á, đài Hirondelle ở Hà Nội… Nghe cứ ù ù mà thích lắm. Thời đó tôi mê loại nhạc thời danh của Ðoàn Chuẩn-Từ Linh, nghe được những bài “Tà áo Xanh”, “Dang Dở” hay “Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay” thú vị lắm. Thời ấy làm như mình bị thấm cái nhạc đó cho nên khi sáng tác, mình phải làm sao có cái “air” nhạc cho nó như vậy …”; “Trong gia tài âm nhạc khoảng 100 ca khúc của tôi, có 2 bài để đời là Thu cavà Thương hoài ngàn năm. Thu ca viết năm 1953, điệu tango. Lúc này, tôi là giáo sư dạy môn Triết học và Việt văn ở Hà Nội. Một chiều thu trời buồn man mác, gió heo may se lạnh, tôi thơ thẩn ngang qua trường Trưng Vương, hình ảnh những nữ sinh trong tà áo dài bay trong gió mùa thu Hà Nội đẹp ru hồn làm bật lên giai điệu: Lạnh lùng sương rơi heo may / Buồn ngơ ngác bóng chim bay / Mây tím giăng sầu đó đây / Ngày đi chiều mang sầu tới…”


Nhạc phẩm “Thương Hoài Ngàn Năm” là nhạc phẩm đầu tiên ông viết tại miền Nam. Phía sau mỗi nhạc phẩm đều ghi dấu một kỷ niệm đã tạo nên nguồn cảm hứng, từ đó ông liên tiếp tung ra những ca khúc: Thung Lũng Hồng, Mắt Lệ Cho Người Tình, Tóc Em Chưa Úa Nắng Hè…. Tuy nơi Phạm Mạnh Cương có hai con người khác biệt, một con người mô phạm, và một con người nghệ sĩ, nhưng ông không để cho hai sự tương phản đó xáo trộn hoạt động của mình: “Với tôi, tôi thu xếp đâu ra đó. Dạy học vẫn làm tròn bổn phận của một nhà giáo, còn nghệ sĩ thì hoạt động hoàn toàn là một nhạc sĩ. Có lẽ tôi mang một tính chất nhà giáo để qua hoạt động bên văn nghệ.Tôi quan niệm, lời ca phải làm cho người ta cảm, chứ đừng viết một cách cao xa quá. Hình ảnh trong âm nhạc phải cụ thể, nhưng không phải cụ thể một cách tầm thường, nhưng là một cụ thể có thi vị…”

“Những bài như “Loài Hoa Không Tan Vỡ”, có gì triết lý trong đó đâu. “Thương Hoài Ngàn Năm“ có gì triết lý trong đó đâu, không có. Có một vài bài như bài “Mắt Lệ Cho Người Tình“ thì cũng phong cảnh thôi, như bài “Tóc Em Chưa úa Nắng Hè“ có thể dùng một vài chữ nó có văn chương, bóng bẫy chút vậy thôi, không phải danh từ “triết”


… Mỗi nhạc phẩm là một bức tranh, Thí dụ như bài “Thung Lũng Hồng” tả thung lũng của Ðà Lạt, buổi sáng mặt trời lên đẹp lắm, sương và ánh nắng hồng chiếu. Rồi từ Thung Lũng Hồng đó tôi nghĩ tới Ðà Lạt có thung lũng gọi là Thung Lũng Tình Yêu… thường thường một nhạc sĩ nói về tình cảm dành cho một mối tình chẳng hạn thì làm một bài thôi. Một bài có dính líu đến mối tình đó. Còn đa số nghệ sĩ khi nào cũng có cái tưởng tượng phong phú. Nhiều người cô độc nhưng vẫn viết được nhạc tình yêu rất hay…”

Bác sĩ Lê Trung Ngân


No comments: