Dưới đây là một vài giai thoại thú vị kể về vị hoàng đế từ những ngày niên thiếu cho tới năm cuối đời, qua đó thể hiện khí phách anh hùng của một bậc đế vương.
7 tuổi: Một ngày lên ngai báu
Sau khi ép Thành Thái – vị hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn thoái vị, khâm sứ Pháp quyết định đưa một trong số những người con của Thành Thái lên ngôi.
Hôm ấy, khâm sứ Fernand Ernest cầm danh sách các hoàng tử vào cung chọn vua, đến lúc điểm danh thì thiếu mất tiểu hoàng tử Vĩnh San. Thì ra cậu bé đang chui dưới gầm giường bắt dế, áo quần xộc xệch, mặt mày lem luốc. Thị vệ bèn vội vàng đưa Vĩnh San ra trình diện quan Pháp. Viên khâm sứ trông thấy tiểu hoàng tử có vẻ ngờ nghệch thì hài lòng lắm, ngay lập tức chọn cậu làm người kế vị ngai vua.
Nhưng người Pháp không ngờ là, tiểu hoàng đế mà họ tưởng rằng có thể dễ bề sai khiến kia đã đổi thay hoàn toàn ngay trong ngày đăng cơ. Cậu bé mới 7 tuổi nhưng lại tỏ ra chững chạc đường hoàng, nói tiếng Pháp với các quan Tây bằng một vẻ tự tin hiếm có.
Sau này, thầy dạy tiếng Pháp cho nhà vua là tiến sĩ Ébérhardt cũng nhận xét: “Vị hoàng đế này sẽ là một nhân vật quan trọng”. Còn theo lời của ông Brieux thuộc Hàn lâm viện Pháp thì: “Cậu vua con nói tiếng Pháp cũng khá”, nhưng “đôi khi lại thốt ra những câu nói xấc xược”. Những câu nói ‘xấc xược’ ấy chính là những lần vua thể hiện thái độ cứng rắn và quyết tâm chống Pháp đến cùng.
8 tuổi: Ta chỉ nhận 200 đồng mà thôi
Năm 1908, ở Trung Kỳ nổ ra vụ kháng thuế, dân chúng chiếm cầu Tràng Tiền suốt nhiều ngày mà quân Pháp không sao dẹp được. Nhưng khi xe vua ngự giá ngang qua, mọi người lại kính cẩn lùi sang hai bên đường cho xe đi.
Vua Duy Tân thấy cảnh dân chúng đói khát đang đòi được giảm thuế, ngài ứa nước mắt nói với triều thần: “Trong nước hay có loạn là vì dân thiếu thốn. Lương của ta 500 đồng mỗi tháng, từ nay ta chỉ nhận 200 đồng thôi, còn 300 đồng ta giao cho các thầy đem giúp dân cứu nước”.
Ảnh chụp vua Duy Tân năm 1907. Bức hoành sau lưng ghi bốn chữ “Tiên cấm trường xuân”.
12 tuổi: Vương Tam – Tây Tứ
Năm 1912, viên khâm sứ Mahé của Pháp mở chiến dịch ráo riết tìm vàng. Mahé lấy tượng vàng đúc trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mộ lăng vua Tự Đức tìm bảo vật, sau lại cho người đào xới trong cung điện để tìm kho báu. Vua Duy Tân bèn ra lệnh đóng cửa hoàng cung phản đối người Pháp, sẵn sàng tuyệt giao với các quan Tây. Cuối cùng, Pháp phải triệu quan toàn quyền Albert Sarraut từ Hà Nội vào Huế giải quyết, vua mới hạ lệnh cho mở hoàng thành.
Cũng cùng năm ấy, Duy Tân được mời tới dự tiệc ở tòa khâm sứ Trung Kỳ. Một viên cố đạo Pháp vừa thông thạo tiếng Việt lại rất giỏi chữ Hán đã đề nghị cùng nhà vua đối chữ.
Viên cố đạo viết vào mẩu giấy hai chữ: “Vương Tam” (王三), ý muốn nói: “Rút ruột vua, tam phân thiên hạ”. Chữ “Vương” là vua, nếu rút đi nét sổ dọc ở giữa sẽ tạo thành chữ “Tam”, ngụ ý chia nước ta thành ba kỳ Bắc, Trung, Nam để dễ bề cai trị.
Vế ra khá hiểm hóc lại xoáy vào nỗi đau của dân tộc, nhưng vua Duy Tân không nao núng liền phê vào đó hai chữ: “Tây Tứ” (西四), như một lời khẳng định: “Chặt đầu Tây, tứ hải giai huynh”. Chữ “Tây” gồm chữ “Tứ” cùng với hai nét dọc và một nét ngang ở trên đầu. Nếu bỏ đi phần đầu sẽ tạo thành chữ “Tứ”, ý là tứ hải giai huynh, bốn bể đều là anh em, chỉ khi đánh đuổi kẻ xâm lăng mới có thể có được tình giao hảo bốn phương.
Thoạt trông cứ ngỡ nhà vua cùng với viên cố đạo đang chén trà đối ẩm, nhưng kỳ thực lại là cuộc đấu trí thông qua ngôn từ. Và bằng vế đối sắc sảo của mình, vị vua trẻ An Nam đã dõng dạc thể hiện quyết tâm chống Pháp.
16 tuổi: Lấy giúp tôi, nhưng phải lấy cho trọn bộ!
Năm 1916, vua Duy Tân tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp cùng với Việt Nam Quang phục Hội. Kế hoạch bại lộ, vua bị người Pháp bắt giam ở đồn Mang Cá. Mặc cho cả quan khâm sai và viên toàn quyền hết lời thuyết phục ngài trở lại ngai vàng, ngoan ngoãn làm một vị vua bù nhìn cho Pháp, nhưng vua vẫn kiên quyết chối từ. Ngài nói: “Các ông muốn tôi làm vua nước Nam thì phải coi tôi là vị vua trưởng thành và có quyền tự do hành động”.
Theo báo L’Echo Annamite (Tiếng vọng An Nam), vị vua trẻ chỉ chấp nhận trở lại ngai vàng khi được “nắm giữ đầy đủ các quyền hành của một quốc vương tự do và vĩ đại”. Quyết định ấy của nhà vua sau này được sử sách triều Nguyễn mô tả là: ‘Vứt bỏ ngôi báu như chiếc giày rách, dấn thân vào gió bụi bôn ba’.
Trước ngày vua lên tàu để bắt đầu hành trình đi đày tới đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương, đại diện tòa khâm sứ Pháp đến thăm và hỏi: “Hiện kho nội vụ vẫn lưu trữ quỹ tiền riêng của nhà vua, vậy ngài có cần lấy ra một ít để mang theo không?”.
Vua khẳng khái đáp: “Tiền đó là để dành cho ông vua cai trị nước Nam, chứ không phải của tôi – một người tù. Tôi không cần có tiền riêng”.
Đại diện tòa khâm sứ lại hỏi: “Tôi biết ngài đam mê đọc sách, tủ sách của ngài chất đầy rất nhiều sách quý. Ngài có muốn lấy một bộ nào đọc cho khuây khỏa không?”.
Vua vui vẻ gật đầu: “Sách tôi rất thích. Vậy phiền ông lấy giúp tôi bộ ‘Lịch sử cách mạng Pháp’ (Histoires de la Révolution Française) của Michelet, nhưng phải lấy cho trọn bộ!”.
Viên đại diện tòa khâm sai mặt biến sắc, không ngờ ngay trước cuộc đi đày tưởng chừng như vô vọng, vua vẫn nung nấu quyết tâm chống Pháp tới cùng.
Vua Duy Tân năm 1930 (ảnh: Wikipedia).
25 tuổi: Còn nhiều vận hội giữa năm châu
Trong những năm đi đày trên đảo La Réunion, cựu hoàng Duy Tân sống một cuộc đời thiếu thốn, phải chật vật kiếm sống từng đồng, nhưng vẫn không ngừng nuôi hy vọng trở về cứu nước: Khi thì ông gửi thư đến báo L’Humanité bày tỏ nguyện vọng nước Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia độc lập như mọi quốc gia châu Âu khác, khi lại gửi đơn lên Bộ Thuộc địa Pháp xin được ân xá, lúc lại tình nguyện gia nhập quân đội để được rời La Réunion, thoát khỏi cảnh đi đày…
Bên cạnh đó, vua âm thầm học hỏi và nghiên cứu kỹ thuật vô tuyến điện, thiết lập một trạm truyền phát tin để theo dõi tình hình chiến sự trên thế giới. Nhờ đó ông có thể mở toang cánh cửa chật hẹp của hòn đảo heo hút giữa đại dương, liên lạc được với thế giới bên ngoài.
Năm 1925, nghe tin Khải Định qua đời, vua Duy Tân trên đảo La Réunion đã ngậm ngùi viết đôi câu đối:
“Ông vội bỏ đi đâu, bỏ tiền, bỏ bạc, bỏ vợ, bỏ con, bỏ thầy tu, hát bội, bỏ hết trần duyên trong một lúc.
Tôi may còn lại đó, còn trời, còn đất, còn nước, còn non, còn anh hùng, hào kiệt, còn nhiều vận hội giữa năm châu”.
Khác với hai vị vua An Nam cùng buông xuôi chấp nhận kiếp sống lưu vong là Hàm Nghi và Thành Thái, hoàng đế Duy Tân lại thể hiện một ý chí mạnh mẽ và niềm tin không bao giờ thay đổi. Đảo La Réunion như chiếc lồng chật hẹp giam giữ cánh đại bàng muốn được vùng vẫy giữa thiên khung, nhưng vua vẫn lạc quan tin rằng: Chỉ cần còn sống là vẫn còn cơ hội.
Và quả thực cơ hội ấy cuối cùng cũng đến, vua được phê duyệt vào bộ binh Pháp, rời khỏi chốn lưu đày, lên đường sang châu Âu. Ngài đã trực tiếp gặp tướng De Gaulle ở Paris, và cùng ông thảo luận về kế hoạch thống nhất Việt Nam. Chỉ tiếc là kế hoạch ấy mãi mãi không thể thực hiện, một vụ tai nạn máy bay đã chôn vùi tất cả, khiến đại bàng vừa mới dang đôi cánh đã phải vùi thân dưới một nắm tro tàn.
10 năm tại vị, 45 năm cuộc đời, lịch sử không ưu ái dành cho vua Duy Tân phút huy hoàng trên ngôi báu, nhưng lại khiến ông sống mãi trong lòng dân tộc Việt. Cuộc đời ông vang vọng hai chữ “Tự do” – niềm khao khát mà cho tới ngày hôm nay, chúng ta vẫn không ngừng tìm kiếm, không ngừng ngóng chờ. Hai chữ ấy đã viết nên huyền thoại Duy Tân, mà sau này con trai ông – hoàng thân Claude Vĩnh San – đã ví như là: “Một khúc đoạn lịch sử, một chốc lát vĩnh hằng”.
Tâm Minh / ĐKN
No comments:
Post a Comment