(Hình minh họa: Qua kknews.cc)
Trong “Đạo Đức Kinh”, Lão Tử viết: “Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân”, ý nói rằng Đạo Trời là công bằng, không thiên vị bất kỳ ai, nhưng thường hay giúp đỡ những người hành thiện. Chỉ có hành thiện tích đức mới có thể được phúc báo.
Nói “Thiên đạo vô thân” chính là bởi vì thiên đạo không chỗ nào không bao hàm, đối xử công bằng bình đẳng với vạn vật nơi thế gian. “Thường dữ thiện nhân” là bởi vì người lương thiện là người tạo phúc cho chúng sinh, ban ơn cho bản thân là phù hợp với đạo thì tự nhiên sẽ nhận được sự bảo hộ, ưu ái của thiên đạo.
Thiên đạo là không thiên vị, đối xử bình đẳng với vạn vật, như vậy làm hay không làm một người tốt là hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân mỗi người. Mỗi một hành vi của bản thân một người sẽ quyết định phúc báo của người ấy. Phẩm chất cao hay thấp của nội tâm một người sẽ quyết định đường đời của người ấy là rộng hay hẹp. Bên Phật gia cũng giảng “tích đức”, “hành thiện tích đức” cũng chính là dạy con người làm người tốt, tích đức mà có được phúc báo về sau.
Nói “Thiên đạo vô thân” chính là bởi vì thiên đạo không chỗ nào không bao hàm, đối xử công bằng bình đẳng với vạn vật nơi thế gian. “Thường dữ thiện nhân” là bởi vì người lương thiện là người tạo phúc cho chúng sinh, ban ơn cho bản thân là phù hợp với đạo thì tự nhiên sẽ nhận được sự bảo hộ, ưu ái của thiên đạo.
Thiên đạo là không thiên vị, đối xử bình đẳng với vạn vật, như vậy làm hay không làm một người tốt là hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân mỗi người. Mỗi một hành vi của bản thân một người sẽ quyết định phúc báo của người ấy. Phẩm chất cao hay thấp của nội tâm một người sẽ quyết định đường đời của người ấy là rộng hay hẹp. Bên Phật gia cũng giảng “tích đức”, “hành thiện tích đức” cũng chính là dạy con người làm người tốt, tích đức mà có được phúc báo về sau.
Trong sách cổ có ghi chép rất nhiều trường hợp làm việc thiện mà có được phúc báo, tránh được tai họa. Trong đó có câu chuyện dân gian kể về vị thần y lương thiện họ Cổ như sau:
Vào niên đại 60, tại Bình Nguyên, Hoài Bắc đã xuất sinh được một thần y họ Cổ. Ông có y đức cao thượng, y thuật tinh xảo, khi chữa bệnh thường dùng “nhân quả” để giáo hóa người bệnh. Khiến cho thể xác và tinh thần của bênh nhân đều khỏe mạnh. Vì vậy, người dân trong vùng gọi ông là “Cổ thiện nhân” (ý chỉ ông là người tốt). Mỗi khi gặp bệnh nhân nghèo, ông chẳng những chữa bệnh không lấy đồng nào mà còn giúp đỡ họ bằng cách cho tiền…
Có một lần, trong thôn có một bà lão đã ngoài 80 tuổi vì tuổi già, cơ thể suy yếu nên bị bệnh nặng. Thần y họ Cổ thấy hoàn cảnh gia đình bà quá nghèo, nên ông không chỉ không thu tiền chữa trị mà còn lấy 60 đồng trong túi áo của mình lặng lẽ đặt vào trong chiếc giày của bà lão. Sau khi vị thần y rời đi, người con trai của bà lão phát hiện ra số tiền 20 đồng mà chị anh ta để ở dưới gối đã “không cánh mà bay”. Người con trai này của bà lão cho rằng thần y là người đã lấy trộm chúng, thế là anh ta chạy theo tới nhà Thần y để hỏi xem có đúng là ông đã lấy trộm không.
Vị thần y nghe xong, liền thừa nhận là mình đã lấy 20 đồng, ông còn lấy trong tủ ra 20 đồng và đưa cho người con trai của bà lão. Anh ta nhận tiền xong còn chửi mắng thần y, đồng thời đá ông 3 cái vào người. Sau khi trở về nhà, anh ta mới biết rằng số tiền 20 đồng kia là do chị gái mình đã lấy cất đi.
Con trai bà lão vừa nghe xong đã vội vàng trở lại nhà thần y, quỳ xuống xin lỗi và hỏi ông một cách khó hiểu: “Thưa tiên sinh, ông không lấy trộm tiền của nhà tôi, tại sao ông lại nhận?”
Vị thần y nghe xong liền trả lời: “Mẹ của cậu bị bệnh nặng không thể tức giận, nếu như không tìm được tiền, bà ấy sẽ sốt ruột lo lắng mà nguy hiểm đến tính mạng. Chỉ cần bà ấy khỏe mạnh, ta thừa nhận mình lấy chút tiền ấy cũng được. Ta tin rằng chân tướng của chuyện này sớm muộn gì mọi người cũng sẽ biết rõ. Nếu như ta có thể chịu nhục một chút, đổi lại mẹ của cậu được khỏe mạnh thì cũng là xứng đáng thôi”. Sau khi nghe xong những lời này, anh ta cảm thấy vô cùng xấu hổ.
Một hôm khác, có một cô gái ở thôn bên kia sông đến cầu xin thần y tới chữa bệnh cho mẹ. Khi thần y cùng cô gái này đi tới bờ sông để lên thuyền qua sông thì thuyền đã đông người. Vị thần y vừa bước chân lên thuyền thì người chèo thuyền lại bảo ông xuống. Những người trên thuyền thấy vậy đều nhao nhao yêu cầu người chèo thuyền cho thần y được qua sông nhưng người chèo thuyền vẫn không đồng ý. Cô gái thấy vậy liền quỳ xuống trước mặt người chèo thuyền vừa khóc vừa cầu xin để thần y được qua sông chữa bệnh cho mẹ mình.
Người chèo thuyền vẫn không đồng ý, thần y liền nói: “Được rồi! Mọi người cứ qua sông trước, ta sẽ đợi chuyến sau!” Người chèo thuyền nói: “Ông có chờ đến đêm tôi cũng không chở ông qua sông.” Mọi người thấy quá lạ bèn hỏi người chèo thuyền: “Rốt cuộc là vì sao mà ông lại không chở thần y qua sông?” Người chèo thuyền im lặng không nói lời nào.
Vị thần y và cô gái đành phải đứng trên bờ nhìn đoàn người qua sông mà than thở. Không ngờ, ngay khi đoàn thuyền vừa đến giữa dòng sông thì bị một cơn lốc xoáy lớn làm chiếc thuyền chao đảo, rồi lật khiến mọi người đều rơi xuống sông sâu mà rất nhiều người tử vong.
Người chèo thuyền bơi được lên bờ mới nói cho vị thần y và cô gái nghe:
Đêm hôm qua tôi đã gặp ba giấc mộng. Khi tôi vừa nằm xuống thì thổ địa nói với tôi: “Ngày mai, nếu thần y Cổ qua sông thì đừng chở ông ấy!” Đến nửa đêm, Hà Bá lại nói với tôi rằng: “Ngày mai, nếu thần y Cổ qua sông thì đừng chở ông ấy!” Đến khi trời tờ mờ sáng thì Quan Thế Âm Bồ Tát lại nói với tôi câu y như vậy. Cho nên, tôi đã không dám chở ông qua sông nhưng cũng không thể nói rõ nguyên do cho mọi người. Đến bây giờ thì tôi mới hiểu, tất cả đều là “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”.
Vị thần y nghe xong, từ trong tâm mình phát ra lời cảm tạ Thần Tiên và Bồ Tát đã cứu giúp tính mạng của mình.
Theo: Trithucvn.net
No comments:
Post a Comment