Vẻ đẹp của ô môi làm người ta xao xuyến
Đặc tính nổi bật của địa hình miền Tây Nam Bộ là kênh rạch chằng chịt. Ven sông ngoài dừa nước mọc ken dày, còn có bần, vẹt, mắm, đước… Trên bờ, với những mảnh vườn hoang nhiều cây tạp như quao, trâm bầu, bình bát… còn một loại cây khác thân gỗ, lớn cỡ vòng tay người lớn, đó là ô môi.
Dân gian giải thích rằng ô là đen, môi là một bộ phận trên miệng người. Khi ăn loài trái này môi người từ đỏ hồng chuyển sang đen thẫm. Vì thế mà có tên gọi ô môi.
Người khác lại cho rằng, do trái ô môi dài mấy tấc, bên trong chứa nhiều ô, gắn liền với mỗi ô là những miếng môi cơm (thịt của trái), vậy mới gọi là ô môi.
Không biết những cách cắt nghĩa ấy khoa học không, chính xác đến đâu, nhưng dẫu sao nó cũng được người bình dân chấp nhận và lưu truyền.
Người khác lại cho rằng, do trái ô môi dài mấy tấc, bên trong chứa nhiều ô, gắn liền với mỗi ô là những miếng môi cơm (thịt của trái), vậy mới gọi là ô môi.
Không biết những cách cắt nghĩa ấy khoa học không, chính xác đến đâu, nhưng dẫu sao nó cũng được người bình dân chấp nhận và lưu truyền.
Ô môi cao lớn, cành lá xum xuê, những cành non có lông màu rỉ sắt, cành già màu nâu đen. Lá kép lông chim với nhiều đôi lá phụ dạng thuôn dài tròn cả hai đầu, có phủ lông mịn, màu xanh bóng, gân rõ.
Do mọc hoang lâu năm nên xung quanh thân ô môi có nhiều lỗ rỗng do sâu bọ đục khoét để ẩn núp, sinh sống. Lợi dụng điều này, nhiều loài rắn độc cũng thừa cơ chui vào, sinh sống trong đó. Vì thế, theo kinh nghiệm, rất ít người dám leo trèo lên cây ô môi.
Trong đời sống thực tế đã có những chuyện hy hữu không may xảy đến cho những leo cây ô môi. Cũng từ đó, miệng đời lưu truyền những câu chuyện huyền hoặc nhưng không kém phần liêu trai, hấp dẫn đặc biệt là với trẻ thơ.
Chẳng hạn, có nhà đang dọn cơm ăn gần gốc ô môi, nghe mùi của thịt cá bốc lên, sâu ô môi lớn bằng cườm tay con nít bò ra, mình vàng tươi, đầu có sừng, mắt lớn trợn ngược, những người xung quanh đều phải bỏ chạy.
Bông ô môi đã tạo nên cảnh sắc lãng mạn tuyệt vời ở miền quê sông nước - Ảnh: Hoàng Trọng
Xét cho cùng, những lời kể ấy là nhằm là nhát con nít để chúng không phải gặp những chuyện không hay mà với sự non nớt của mình các em không thể ứng xử được toàn vẹn.
Ngay những ngày cuối đông cho đến khi qua tết Nguyên đán, cuối tháng Giêng đầu tháng Hai mùa nắng nóng đã dần lên đến đỉnh điểm, là lúc cây ô môi rụng hết lá và bắt đầu trổ bông. Bông ô môi mọc thành từng chùm, cánh hoa có màu hồng pha sắc tím. Quyện trong làn sương mỏng buổi sớm mai bông ô môi đã tạo nên cảnh sắc lãng mạn tuyệt vời ở miền quê sông nước.
Trái ô môi khi già, chín, vỏ sẽ cứng, đen sậm. Cuống trái ô môi cứng chắc nên trái rất khó rụng. Để hái ô môi, người dân dùng những cây lồ ô (một loại tre có chiều dài cả chục thước tây và thon, nhỏ) rồi tra buộc móc sắt vào để cắt cuống trái.
Trái vừa hái xong có mùi khăn khẳn, chan chát, ăn liền sẽ có vị gắt. Theo kinh nghiệm, người ta để mấy bữa cho ô môi “nhả” hết nắng ăn mới ngon.
Khi ăn, người ta dùng dao bén róc hai bên mép vỏ mềm. Sau đó, ép hai đường gân đôi bên cho xệu xạo, rồi mới lấy múi ô môi đen nhánh, tròn tròn như đồng tiền. Ô môi có vị ngòn ngọt, cay nồng. Có lẽ do phải kết tinh trong suốt một năm trời nên mới có hương vị thơm quyện đặc trưng ấy.
Chiều chiều, nhấm nháp miếng ô môi, nghe máy hát nhà ai đó vang lên tiếng ca ngọt lịm của cố nghệ sĩ Tấn Tài với lời vọng cổ của cố soạn giả Viễn Châu mà thấm thía bao nỗi niềm cảm xúc: … Ô môi rụng cánh ngoài sân, Mấy mùa hoa nở mấy năm đợi chờ… Ô môi rụng cánh tơi bời, Chuông tắt lâu rồi, tôi còn đứng mong ai!
Minh Khuyên / Theo: PNO