Vì những công đức vĩ đại đó, người Trung Hoa đã tôn vinh Khổng Phu Tử là “Vạn Thế Sư Biểu” và “Chí Thánh Tiên Sư”, một danh dự tuyệt vời đã làm lu mờ cả những thánh nhân và minh quân đã ra đời trước ngài như Phục Hy, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, Văn Vương, và Vũ Vương.
Tuy nhiên, chúng ta ít khi nghe đến thế giới phương Tây nghĩ gì về thánh nhân họ Khổng. Trong tập khảo luận mang tên WHY CONFUCIUS HAS BEEN REVERENCED AS THE MODEL TEACHER OF ALL AGES (St. John’s University Press, 1976), tác giả Li-fu Chen cho biết một số nghiên cứu gia gồm các sắc dân Anh, Đức, Ý, Mỹ, Nga, Pháp đã viết về thân thế và sự nghiệp Khổng Tử kể từ năm 1688 trở đi, với các tác phẩm sau đây viết về “Vạn Thế Sư Biểu” được coi là đáng kể hơn cả: CONFUCIUS UND SEINE LEHRE (Von Der Gabelentz viết năm 1888 tại Đức Quốc), The GREAT TEACHER (G. G. Elexander viết năm 1890 tại Anh Quốc). Tóm lại, phương Tây mới chỉ chánh thức biết đến vị “Thầy Học Mười Ngàn Thế Hệ” của phương Đông từ cuối thế kỷ 17 trở đi.
Trong lãnh vực giáo dục, mấy ai co thể ngờ rằng “Cửa Khổng” hàng ngàn năm về trước đã là nơi cho áp dụng những nguyên tắc giáo dục nhân bản tuyệt diệu mà nước Mỹ giờ đây đang hô hào thực hiện? Quả thực, học giới nước MỸ ngày nay rất ngưỡng mộ triết lý giáo dục Khổng Tử, nhất là các nguyên tắc sau đây:
(1) GIÁO HUẤN KHÔNG PHÂN BIỆT GIAI CẤP: Khổng Tử có một niềm tin vững mạnh vào sự bình đẳng và bản chất có thể dạy dỗ được của tất cả mọi người. Trong sách LUẬN NGỮ, ngài nói “Trong giáo dục, không hề có phân biệt giai cấp” (“Hữu giáo, vô loại”, Thiên Vệ Linh Công, Chương 38), và “Từ người chỉ có thể mang cho ta gói nem khô trở lên, ta chưa hề từ chối giáo huấn một ai” (“Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường hối yên”, Thiên Thuật Nhi, Chương 7). Hành động đầy nhân nghĩa này của ngài như thể đã xác định căn nguyên cho nền giáo dục đại chúng của nhân loại. Ngài cũng chủ trương một học đường lúc nào cửa cũng mở để đón nhận học trò, và điều kiện duy nhất để được nhập học là phải có lòng hiếu học. Trong mọi đệ tử, ngài đều tìm thấy một tiềm năng học vấn, và ngài nhất quyết giúp mọi môn sinh trở thành con người toàn diện. Hiện nay, một trọng trách của giáo chức Mỹ là phải có “ước vọng cao” (“high expectations”) cho từng học trò và phải tin tưởng rằng “học trò nào cũng có thể học được” (“every student can learn”). Đó chính là điều Khổng Tử đã làm 25 thế kỷ về trước để mong xây dựng lại một nước Trung Hoa đang phân hóa và bạc nhược.
(2) GIÁO DỤC ĐỒNG NGHĨA VỚI PHONG CÁCH XỬ THẾ: Theo Khổng Tử, kiến thức đồng nghĩa với sự thông thái về cách xử thế, một đức tính cần thiết để mang lại một đời sống tốt đẹp cho cá nhân và xã hội. Do đó, mục đích chính của nền giáo dục Cửa Khổng Sân Trình là huấn luyện cho con người cách xử thế để có thể sống hòa hợp với đồng loại, bất kể ở gần hay xa, cao hơn hay thấp hơn mình trong giai tầng xã hội. Trách nhiệm của người thầy không phải chỉ để truyền bá kiến thức mà còn phải có một tiêu chuẩn lý tưởng về đạo đức để còn có thể trau giồi tư cách học trò mình. Trong sách TRUNG DUNG, Khổng Tử viết “Trí, nhân, và dũng là ba đức tính có thể ràng buộc con người khắp nơi vào với nhau” (“Trí, nhân, dũng tam giả, thiên hạ chi đạt đức dã”, Chương 20, Tiết 8). Triết lý giáo dục nhân bản cao thượng này đang vang lên như một sứ điệp thiêng liêng cho các xã hội tân tiến đang bị các tệ đoan vật chất đe dọa và đang tìm cách dạy dỗ thanh thiếu niên trở về với bản chất thiện tâm qua nỗ lực “giáo huấn tư cách” (“character education”).
(3) CÁ NHÂN HÓA PHƯƠNG THỨC GIẢNG HUẤN: Các xã hội tân tiến ngày nay đều đồng ý là muốn thăng tiến giáo dục, phương thức giảng huấn phải được “cá nhân hóa” (“individualized”) để giúp mọi học trò thành công. Trong sách LUẬN NGỮ, Khổng Tử xác định “Đối với những người có tư chất từ bậc trung trở lên thì mới có thể nói đến những điều cao xa; đối với những người có tư chất từ bậc trung trở xuống thì không thể nói những điều cao xa” (“Trung nhân dĩ thượng, khả dĩ ngữ thượng dã; trung nhân dĩ hạ, bất khả dĩ ngữ thượng dã”, Thiên Ưng Dã, Chương 19). Nhà giáo lỗi lạc Dương Quảng Hàm trong cuốn VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU (xuất bản năm 1941) đã viết như sau về khoa sư phạm của Khổng Tử: “Trong các lời khuyên dạy, chuyện trò với học trò, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý học trò và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ cảnh ngộ của mỗi người”. Phương cách giảng huấn nhân bản tuyệt luân này có thể được coi là tiền thân của các chương trình học đặc biệt căn cứ vào từng khả năng cá biệt của từng học trò mà ngày nay học đường Hoa Kỳ mệnh danh là “independent study, self-paced instruction, gifted and talented program, laureate program”, vân vân.
(4) SUY TƯ CHÍN CHẮN: Giáo giới các cấp nước Mỹ ngày nay đều ao ước các học sinh và sinh viên có được “khả năng suy tư chín chắn” (“critical thinking skills”) để thấu đáo, quán triệt việc học. Khổng Tử luôn luôn đòi hỏi các môn sinh của ngài làm việc đó. Ngài dạy điều gì cũng để cho học trò phải cố sức suy nghĩ tìm tòi lấy, khi nào xem chừng đã gần hiểu được thì ngài mới chỉ bảo cho. Lời ngài cho môn sinh, ghi trong sách LUẬN NGỮ, là “Ta không mở sự thực cho kẻ không hăng hái học, không giúp kẻ không sốt sắng tự giải. Khi ta trình bầy một góc cạnh của một vật cho ai mà người đó không thể từ đó học ba góc cạnh kia, ta không nhắc lại bài học nữa” (“Bất phận, bất khải, bất phỉ, bất phát; cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã”, Thiên Thuật Nhi, Chương 8). Cũng trong sách đó, ngài nói “Học mà không suy nghĩ thì như không có học; suy nghĩ mà không có học thì nguy” (“Học nhi bất tư tắc võng; tư nhi bất học tắc đãi”, Thiên Vi Chính, Chương 15), và ngài đòi hỏi môn sinh phải có một thành tín trí thức, tức là “Điều gì biết được thì nói là mình biết, điều gì không biết được phải nhận là không biết; đó là biết vậy” (“Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri; thị tri dã”, Thiên Vi Chính, Chương 17).
Dưới mắt người phương Tây, Khổng Phu Tử là một nhà hiền triết vĩ đại, một nhà giáo vượt thời gian và không gian. Không ai có thể phủ nhận được những tương đồng thần kỳ giữa những điều mà ngài áp dụng cho môn sinh 25 thế kỷ về trước và những mục tiêu giáo dục hiện đại tại Hoa Kỳ cũng như tại các xã hội tiền tiến khác. Sự thực hiển nhiên này lại càng làm tăng thên uy danh cho tước hiệu cao quý “Vạn Thế Sư Biểu” mà người phương Đông đã dùng để tôn vinh và tri ân ngài.
Đàm Trung Pháp
Nguồn: Viện Việt Học
Đôi dòng về GS Đàm Trung Pháp
Giáo Sư Đàm Trung Pháp (BA, MS, PhD) chuyên về ngữ học (linguistics) và phương pháp huấn luyện ESL (ESL instruction methodology).Cựu học sinh các trường Trung Học Chu Văn An (Hà Nội), Trần Lục (Saigon), và Chu Văn An (Saigon).
- Cựu sinh viên các trường Đại Học Miami (Ohio), Georgetown (Washington, DC), và Saigon.
- Giảng sư ngữ học Anh tại Đại Học Sư Phạm Saigon (1968-1975).
- Giám đốc Trường Sinh Ngữ và Trung Tâm Thính Thị Anh Ngữ, Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa (1969-1971).
- Giám đốc Trung Tâm Sinh Ngữ, Viện Đại Học Saigon (1971-1975).
- Giám đốc học vụ đặc trách ESL và ngoại ngữ, Khu Học Chánh Dallas (1981-1998).
- Chủ biên chuyên san về giáo dục ESL cho Liên Viện Đại Học Bắc Texas (Federation of North Texas Area Universities) (2006-2011).
- Giáo sư thực thụ (tenured professor) về Ngữ học giáo dục (educational linguistics) tại Texas Woman’s University (1998 -2012). Khi về hưu năm 2012, GS Đàm Trung Pháp được Đại học Texas Woman’s University ân tặng tước vị professor of linguistics emeritus
- Từ năm 2018, ông là Chủ biên cho Tập San Việt Học của Viện Việt Học tại Little Saigon, Nam California.
Theo: Sài Gòn Thập Cẩm
No comments:
Post a Comment