Đoản ca hành kỳ 2 - Tào Tháo
Đối tửu đương ca,
Nhân sinh kỷ hà:
Thí như triêu lộ,
Khứ nhật khổ đa.
Khái đương dĩ khảng,
Ưu tư nan vong.
Hà dĩ giải ưu:
Duy hữu Đỗ Khang.
Thanh thanh tử khâm,
Du du ngã tâm.
Đãn vị quân cố,
Trầm ngâm chí kim.
U u lộc minh,
Thực dã chi bình.
Ngã hữu gia tân,
Cổ sắt xuy sinh.
Hạo hạo như nguyệt,
Hà thời khả chuyết?
Ưu tòng trung lai,
Bất khả đoạn tuyệt.
Việt mạch độ thiên,
Uổng dụng tương tồn.
Khế khoát đàm yến,
Tâm niệm cựu ân.
Nguyệt minh tinh hy,
Ô thước nam phi,
Nhiễu thụ tam tạp,
Vô chi khả y.
Sơn bất yếm cao,
Thuỷ bất yếm thâm.
Chu Công thổ bộ,
Thiên hạ quy tâm.
短歌行其二 - 曹操
對酒當歌
人生幾何
譬如朝露
去日苦多
慨當以慷
憂思難忘
何以解憂
惟有杜康
青青子衿
悠悠我心
但為君故
沉吟至今
呦呦鹿鳴
食野之苹
我有嘉賓
鼓瑟吹笙
皎皎如月
何時可輟
憂從中來
不可斷絕
越陌度阡
枉用相存
契闊談宴
心念舊恩
月明星稀
烏鵲南飛
繞樹三匝
無枝可依
山不厭高
水不厭深
周公吐哺
天下歸心
Bài hát ngắn kỳ 2
(Dịch thơ: Lệ Chi Sơn)
Trước ly rượu ta nên ca hát
Một đời người thấm thoát là bao?
Khác chi mấy hạt sương mai,
Ngày qua sầu tủi hỏi ai không buồn?
Vụt đứng dậy, lòng thêm khảng khái
Nhưng cái buồn đeo mãi không tha
Giải sầu chỉ một chăng là
Mượn đôi ba chén cửa nhà Đỗ Khang
Tuổi đi học, áo xanh cổ cứng
Mà lòng ta bịn rịn hôm mai
Nhưng thôi nhắc mãi làm chi
Tuổi xanh quá vãng vì mi ta buồn
Con hươu lạc kêu trên đồng vắng
Chân ngẩn ngơ mồm gặm cỏ non
Nhà ta khách quý rộn ràng
Đàn ca sáo phách bập bùng thâu đêm
Mảnh trăng nọ treo trên trời rộng
Biết bao giờ hết sáng ngàn cây?
Nỗi buồn ập đến ai hay
Lòng ta vương vấn khi đầy khi vơi
Xông pha mãi một đời gió bụi
Uổng công ta lui tới đeo đai
Bi hoan ly hợp một đời
Mong người tri kỷ đứng ngồi chẳng an
Trăng vằng vặc sao ngàn thưa thớt
Quạ về nam thảng thốt kêu thương
Liệng quanh cây những mấy vòng
Mà không tìm được một cành nương thân
Chẳng quản ngại ta tìm tri kỷ
Dù núi cao, biển cả sâu nông
Một đời nghiền ngẫm Chu công
Làm sao thiên hạ dốc lòng về ta.
Đoản ca hành là tên một khúc nhạc phủ, thuộc Tương hoạ ca. Tào Tháo có hai bài, đây là bài thứ hai, thể hiện tráng chí và ý nguyện cầu hiền tài. Lời bài thơ trôi chảy, khí vận trầm hùng, tiêu biểu cho phong cách thơ của Tào Tháo. Bài thơ này được cho là sáng tác vào năm Kiến An thứ 13 (208), trong đêm trước trận chiến Xích Bích.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Tào Tháo曹操 (155–220) tức Nguỵ Vũ Đế 魏武帝, tự Mạnh Đức 孟德, tiểu danh A Man 阿瞞, Cát Lợi 吉利, người tộc Hán thuộc huyện Tiêu nước Bái cuối đời Đông Hán (nay là Hào Châu, tỉnh An Huy), làm quan tới chức Thừa tướng, tước Nguỵ vương. Ông được coi là một nhà chính trị, quân sự, văn học và là một thi nhân vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Về mặt chính trị và quân sự, ông đã tiêu diệt hầu hết các thế lực cát cứ, thống nhất đại bộ phận khu vực phương bắc Trung Quốc, hình thành nền móng của nhà Tào Nguỵ (220–265). Trên lĩnh vực văn học, ông cùng hai con trai Tào Phi 曹丕 và Tào Thực 曹植 (gọi chung là Tam Tào) được coi là những đại biểu của văn học Kiến An, lịch sử gọi là Kiến An phong cốt. Sau khi Tào Phi phế Hán và xưng đế, tôn xưng ông là Đại Nguỵ Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu Nguỵ Vũ Đế.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment