Thursday, July 4, 2024

CẤM TRUNG THU DẠ - THÁI THUẬN


CẤM TRUNG THU DẠ - THÁI THUẬN

Tỉnh ngô cung diệp cộng tiêu tao,
Toạ giác phù lương đáo thuý bào.
Lãm nhiễu tây phong liêm ảnh động,
Thành lâm bắc đẩu cổ thanh cao.
Tam sinh hương hoả kinh tàn mộng,
Bán thế quang âm cảm nhị mao.
Đăng hạ Uyên Minh thi lãn độc,
Cố hương quy tứ chính thao thao.


禁中秋夜 - 蔡順

井梧宮葉共蕭騷
坐覺浮涼到翠袍
欖繞西風簾影動
城臨北斗鼓聲高
三生香火驚殘夢
半世光陰感二毛
燈下淵明詩懶讀
故鄉歸思正滔滔


Đêm thu nơi cung cấm (Dịch thơ: Quách Tấn)

Lá cung rụng tiếng ngô đồng,
Phòng tiêu nghe đã lạnh lùng áo xiêm.
Gió tây đoanh lộn bóng rèm,
Thành vươn Bắc đẩu vươn thêm trống thành.
Mộng tàn hương lửa ba sanh,
Quang âm nửa gối, trắng xanh mái đời.
Thơ Đào lửng ngọn đèn côi,
Tấm lòng cố lý sụt sùi khôn ngăn.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Thái Thuận 蔡順 (1440-?) tự Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, sinh 1440. Đậu tiến sĩ 1475 (niên hiệu Hồng Đức thứ 6).
 
Thái Thuận sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).

Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi, về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ.

Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm trải 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương, và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa...

Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn Phó nguyên súy) trong Hội Tao Đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495.

Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ.


Sinh thời, ông sáng tác hàng nghìn bài thơ chữ Hán, nhưng chưa soạn thành tập. Sau khi ông mất, người con là Thái Đôn Khác và người học trò là Đỗ Chính Mô mới ra công sưu tập được vài trăm bài, viết bài Tựa, đặt tên là Lã Đường di cảo (Bản thảo còn lại của Lã Đường), và hoàn thành vào năm Hồng Thuận thứ 10 (1510) đời vua Lê Tương Dực.

Sau, phần lớn trong trong tập thơ này được trích tuyển trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (125 bài), và trong Toàn Việt thi lục của Bùi Huy Bích (25 bài).

Tập Lã Đường di cảo hiện nay chỉ còn 264 bài thơ chữ Hán. Gần đây, thơ ông được thi sĩ Quách Tấn tuyển dịch, đặt tên là Lữ đường thi, và đã được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2001.

Vua Lê Thánh Tông từng khen Thái Thuận là thi sĩ "luôn luôn nổi tiếng ở trường thơ". Các danh sĩ như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Ngô Thì Nhậm, Bùi Huy Bích đều xưng tụng ông là "nhà thơ có khuôn thước, có phong cách đời Vãn Đường", là "thanh nhã, dồi dào", là "sau tập thơ Giới Hiên của Nguyễn Trung Ngạn, ít khi có thể văn ấy"...

Theo một số nhà nghiên cứu gần đây, thì thơ Thái Thuận có phong cách độc đáo, ít khi rơi vào khuôn sáo, thù tạc như thơ ca của nhiều tác giả cùng thời, nhất là những tác giả cung đình. Thơ ông ít có những nét bút hoành tráng, khí phách, tình cảm mạnh mẽ, sắc màu thắm rực như thơ Nguyễn Trãi, cũng ít có giọng khoa trương, tự đắc thường thấy trong thơ Lê Thánh Tông. Thơ ông thanh thoát, bình dị, không màu mè, hoa mỹ, tứ thơ mới mẻ, độc đáo, phóng khoáng giàu chất hiện thực, đậm đà ý vị trữ tình..

Nguồn: Thi Viện

No comments: