(ảnh: VDH).
Tuổi trẻ Tôn Tư Mạc
Tôn Tư Mạc có y thuật cao minh và muốn chữa bệnh cho mọi người. Nhưng mọi thứ lại đi ngược sự mong đợi của ông. Những ngày đầu xuống núi, dù có đi đâu, ông không những không thể chữa khỏi bệnh cho người ta, mà ngay khi ông ra tay, có những bệnh nhân còn lăn ra chết. Tôn Tư Mạc bị người ta buộc tội, chửi rủa và bị đuổi đi như một bệnh dịch.
Tuy nhiên sau đó, khi đôi đép rơm ông đi nặng 8 cân rưỡi, ông có thể trị khỏi bệnh cho mọi người và được thế nhân tôn là Dược Vương.
Tôn Tư Mạc được cho là sinh ra từ thời nhà Chu và sống đến tận thời Tùy Đường. Nơi ông sinh ra là vùng đất Thiểm Tây. Khi còn nhỏ Tôn Tư Mạc bị bệnh phải uống thuốc, làm cạn kiệt gia sản. Tuy vậy, ông rất thông minh và hiếu học.
Lúc lên 7 tuổi, mỗi ngày ông có thể đọc thuộc lòng hơn một nghìn từ. Năm 18 tuổi, ông lập chí học y để chữa bệnh khổ cho mọi người. Ở tuổi 20, ông đã học lý thuyết của các trường phái Lão Trang, bách gia chư tử, cũng như đọc kinh Phật hỷ duyệt.
Đương thời Tổng quản Lạc Dương là Độc Cô Tín nhìn thấy Tôn Tư Mạc liền thở dài: “Đây là một chàng trai lương thiện, có chí lớn nhưng e rằng kiến thức ít ỏi. Cho nên khó có thể bổ nhiệm.”
Tôn Tư Mạc cùng sư phụ học y trong núi nhiều năm, và được sư phụ nhận làm đệ tử chân truyền. Khi từ biệt sư phụ xuống núi, thầy đã cảnh báo ông: “Mọi việc trên đời đều có số mệnh, tốt và xấu. Đừng vì những khó khăn nhất thời mà quên đi nguyện vọng cứu đời giúp người. Nguyện vọng ban sơ không đổi, tất thành đại sự.”
Ảnh: Liqingzhao.
Sau khi xuống núi, Tôn Tư Mạc luôn làm theo lời dạy của sư phụ và tận tâm chữa bệnh cho mọi người. Không ngờ mọi chuyện lại phản tác dụng. Những nghịch cảnh bủa vây khiến con đường tế thế của ông gặp trùng trùng gian khổ. Tôn Tư Mạc bị người đời buộc tội, chửi rủa và xua đuổi.
Một ngày nọ, cuối cùng vì không thể chịu đựng được nữa, Tôn Tư Mạc quay trở về núi để bày tỏ nỗi lòng với sư phụ. Sư phụ nói: “Ta biết tất cả những đau khổ mà con đã phải chịu đựng. Nhưng đây chỉ là một quá trình. Khi đôi dép rơm của con nặng tới 8 cân rưỡi, tình thế sẽ xoay chuyển.”
Khi xuống núi lần nữa, Tôn Tư Mạc cũng trải qua những trải nghiệm tương tự. Nhưng dù mọi chuyện không như ý muốn, ông cũng không nản lòng, thối chí.
Dép rơm nặng 8 cân rưỡi
Một ngày nọ, khi đang đi Tôn Tư Mạc bước phải một đầm lầy. Đôi dép rơm của ông theo chân thụt xuống bùn, khi kéo lên được thì nó gần như đã rách toạc.
Sau khi bước ra khỏi đầm, ông dựa vào một thân cây lớn, buộc đôi dép rơm làm từ cỏ mềm đã rách nát lại, tiếp tục xỏ vào chân. Nhưng đôi dép rơm này đã ngấm nước nên rất nặng.
Ảnh: Baike.
Đột nhiên, một đám tang đi ngang qua với tiếng khóc và máu thì đang chảy ra từ quan tài. Tôn Tư Mạc lập tức đến gần, cẩn thận quan sát vết máu và hét lên: “Dừng lại! Dừng lại! Người ta còn có thể được cứu, người còn có thể được cứu…”.
Những người khiêng quan tài phớt lờ anh ta, cho rằng thật xui xẻo khi đang khiêng quan tài mà lại đặt xuống. Tôn Tư Mạc đành phải đi theo đoàn người và nói:
“Bên trong có một người mẹ đã chết khi sinh con. Không những đứa trẻ chưa chào đời mà người mẹ cũng chảy máu rất nhiều. Hãy nhanh chóng đặt quan tài xuống! Người mẹ có thể được cứu sống. Nếu không nhanh sẽ không kịp mất!”
Khi những người khiêng quan tài nghe thấy điều này, họ vô cùng kinh ngạc tự hỏi, làm sao ông ta biết được điều này? Thế là quan tài được hạ xuống và mở ra để Tôn Tư Mạc tùy ý chữa trị.
Ông lấy ra một cây kim bạc, tìm đúng huyệt đạo cắm vào, sau đó dùng tay vặn mạnh cây kim hơn. Một lúc sau, người phụ nữ hét lên một tiếng “A” và mở mắt.
Ngay lập tức người ta nghe thấy tiếng khóc của đứa bé, bào thai trong bụng đã chào đời. Cả hai mẹ con đều được cứu sống.
Họ không biết phải làm thế nào để báo đáp ơn cứu mạng của Tôn Tư Mạc, nên đã mời ông về nhà, sau đó cả nhà cùng bái lạy. Ngày hôm sau, Tôn Tư Mạc nhất quyết đòi rời đi, gia đình họ không giữ được, nên đã gửi ông một ít tiền lộ phí; nhưng Tôn Tư Mạc từ chối và chỉ nhận một đôi dép rơm mới.
Gia đình họ muốn vứt đôi dép rơm cũ đi nhưng Tôn Tư Mạc không muốn, ông để nó lên chiếc cân và thấy đôi dép rơm nặng đúng 8 cân rưỡi.
Câu chuyện chiếc kim bạc cứu hai mạng người nhanh chóng được lan truyền. Kể từ đó, việc Tôn Tư Mạc xem bệnh là dễ dàng chữa khỏi, và thần tích “thần y dép rơm” ngày càng được lan truyền rộng rãi.
Hầu hết mọi người đều biết rằng Tôn Tư Mạc có y thuật thần kỳ bởi vì ông là một đạo sĩ, thực ra, chính vì là một đạo sĩ nên ông có y thuật thần kỳ. Ông rất thông thạo các lý thuyết Đạo giáo và đã học được tất cả các loại số thuật.
Thị lang Đông Đài là Tôn Xứ Ước từng đưa năm người con trai của mình là Tôn Tuấn, Tôn Cảnh, Tôn Hựu, Tôn Toàn và Tôn Đĩnh đến bái kiến Tôn Tư Mạc. Tôn Tư Mạc đã dự đoán: “Người đầu tiên hiển quý là Tôn Tuấn, sau này là Tôn Hựu; Tôn Toàn có địa vị cao nhất, nhưng lại gặp tai họa vì sự cai quản binh quyền.”
Sau này, tất cả những gì Tôn Tư Mạc nói trở thành sự thật.
Thái tử Chiêm sự Lô Tề Khanh, khi còn nhỏ, ông đã thỉnh giáo Tôn Tư Mạc, Tôn Tư Mạc nói: “Trong 50 năm tới, ông có thể quản các chư hầu. Cháu trai của ta sẽ là một quan chức dưới quyền của ông. Ông nên tự bảo trọng”.
Sau đó, Lô Tề Khanh nhậm chức Huyện lệnh Từ Châu, và cháu trai của Tôn Tư Mạc là Tôn Phổ trở thành Tiêu huyện ở Từ Châu. Khi Tôn Tư Mạc nói điều này, Tôn Phổ vẫn chưa được sinh ra và Tôn Tư Mạc nhưng ông đã biết trước chuyện gì sẽ xảy ra.
Tôn Tư Mạc rất thông hiểu kim cổ, ông đàm luận về sự kiện Chu và Tề một cách rõ ràng như thể ông đã nhìn thấy chúng bằng chính mắt mình. Vì vậy, khi Ngụy Trưng và những người khác được lệnh biên soạn lịch sử các triều đại Tề, Lương, Chu, họ lo lắng sẽ bỏ sót điều gì đó, và cũng đã nhiều lần xin thỉnh giáo từ Tôn Tư Mạc.
Thời Hậu Chu Tuyên Đế sau này, Tôn Tư Mạc sống ẩn dật ở núi Trung Nam do những biến cố triều đại. Khi Tùy Văn Đế phụ chính, Tôn Tư Mạc được mời làm ngư y, ông ta tự nhận mình có bệnh không thể chịu đựng được, ông ta nói với những người thân cận: “50 năm nữa mới có một thánh nhân xuất thế. Khi đó, ta sẽ giúp người này tế thế độ nhân.”
50 năm sau, Đường Thái Tông Lý Thế Dân lên ngôi và triệu ông về kinh. Khi Đường Thái Tông nhìn thấy Tôn Tư Mạc đã 70 tuổi, bộ dáng như thanh niên, thở dài: “Nhìn thấy ông, ta đã minh bạch rằng người chính nghĩa cần phải kính trọng. Những nhân vật bất tử như Tiên Môn, Quảng Thành Tử quả thực xứng đáng được thiên hạ tôn kính. Đó là sự thật, không chỉ là lời nói hư dối.”
Ảnh: Songdep.
Tôn Tư Mạc chưa từng làm quan, ông ở trong dân gian mà phổ cứu thương dân, tự bào chế dược phẩm, thường ẩn náu trong núi rừng. Trong những năm cuối đời, ông sống ẩn dật ở quê hương Ngũ Đài Sơn.
“Thiên kim dực phương” và “Kim thiên yếu phương” của ông là những bộ bách khoa toàn thư về y học cổ truyền Trung Quốc, siêu việt khỏi các thế hệ kim cổ.
Ông đích thân chú thích “Lão Tử” và “Trang Tử”, đồng thời viết các tác phẩm Đạo giáo như “Phúc Lộc Luân”, “Nhiếp sinh chân lục”, “Chẩm trung tố thư”, “Hội tam giáo luận” và các tác phẩm thuộc đạo gia khác.
Tôn Tư Mạc nói coi trọng đức hạnh hơn uống thuốc tiên: “Trăm dòng chế dược, dù không có mồi thuốc cũng đủ sống trường thọ; nếu không đức hạnh, dù có dùng ngọc dịch kim đan cũng không thể kéo dài tuổi thọ”.
Ý là, người có đức hạnh có thể sống lâu hơn ngay cả khi không dùng thuốc bổ. Một người không có đức hạnh, ngay cả khi người đó uống thuốc trường sinh cũng không thể kéo dài cuộc sống.
Tôn Tư Mạc , người đã cứu vô số sinh mạng trong suốt cuộc đời, bị điếc và mù trong những năm cuối đời, và nghị lực của ông thật phi thường.
Một ngày nọ vào năm Vĩnh Thuần thứ nhất (năm 682) đời Hoàng đế Đường Cao Tông, Tôn Tư Mạc dậy sớm, tắm rửa thay quần áo rồi ngồi thẳng dậy, nói với con cháu: “ Ta sắp thăng thiên làm quan trên đó”. Một thời gian sau, ông qua đời.
Hơn một tháng sau khi chết, trông dung mạo của ông vẫn như còn sống. Gia nhân đặt thi hài ông vào một chiếc quan tài, quan tài bằng gỗ nhẹ như thể bên trong chỉ có bộ quần áo của ông.
Có ghi chép nói ông sống đến 101 tuổi, có người nói ông đã 165, 142 tuổi, nhưng tóm lại các thuyết đều nói ông sống được hơn 100 tuổi.
Quay trở lại câu hỏi trên tiêu đề, tại sao sư phụ của Tôn Tư Mạc nói: “Khi đôi dép rơm của con nặng 8 cân rưỡi, tình thế xoay chuyển” khi đó ông mới có thể chữa bệnh? Có lẽ, Tôn Tư Mạc lên núi tầm sư học đạo, nhưng phải đến khi ông xuống núi hứng chịu gian khổ của sự “nhập thế”, trải qua biết bao gian khổ; cho đến ngày ông sa vào vũng lầy cũng là ngày ông đắc đạo, khai ngộ.
Vì đắc đạo có thần thông nên ông có thể nhìn thấy bên trong quan tài là người phụ nữ, biết được cô ấy chưa chết và biết được y thuật cứu sống hai mẹ con Đó là thời điểm Tôn Tư Mạc tu thành Chân Nhân sử sách gọi là Tôn Chân Nhân. Và chắc chắn rằng, sư phụ của ông cũng không phải là một người bình thường.
Nguồn: Aboluowang (Lý Quảng Tùng).
No comments:
Post a Comment