Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên,
Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên.
Dục vị thánh minh trừ tệ sự,
Khẳng tương suy hủ tích tàn niên.
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại,
Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý,
Hảo thu ngô cốt chướng giang biên.
左遷至藍關示姪孫湘
一封朝奏九重天
夕貶潮州路八千
欲為聖明除弊事
肯將衰朽惜殘年
雲橫秦嶺家何在
雪擁藍關馬不前
知汝遠來應有意
好收吾骨瘴江邊
Bị giáng chức đi xa, đến ải Lam dặn lại cháu Tương
(Dịch thơ: của Bùi Khánh Đản)
Sớm dân bản tấu vào cung khuyết,
Chiều đất Triều Châu bị biếm ra.
Muốn bỏ dị đoan cho đất nước,
Quản chi suy hũ tiếc thân già.
Mây ngang Tần Lĩnh, nhà đâu tá?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua.
Hẳn cháu đến đây lòng đã định,
Chướng giang rồi nhặt nắm xương ta.
Hàn Dũ 韓愈 (768-824) tự là Thoái Chi 退之, sinh quán ở Nam Dương nay thuộc tỉnh Hồ Bắc. Tổ phụ là người huyện Xương Lê nên ông thường tự xưng là Hàn Xương Lê 韓昌黎. Ông sinh năm 768, mất năm 824 và do đó được xếp vào những tác gia của Trung Ðường. Mồ côi cha mẹ từ năm ba tuổi, thuở nhỏ ông có một cuộc sống rất cực khổ, sống chung với anh và khi anh chết thì ông được người chị dâu dưỡng dục cho đến khi thành tài. Tình cảm sâu đậm giữa ông và gia đình người anh sau này đã được ông kể lại trong bài Tế thập nhị lang văn bất hủ.
Nguồn: Thi Viện
Link tham khảo: