Đối tiêu tiêu mộ vũ sái giang thiên,
Nhất phiên tẩy thanh thu,
Tiệm sương phong thê khẩn,
Quan hà lãnh lạc,
Tàn chiếu đương lâu.
Thị xứ hồng suy lục giảm,
Nhiễm nhiễm vật hoa hưu.
Duy hữu Trường Giang thuỷ,
Vô ngữ đông lưu.
Bất nhẫn đăng cao lâm viễn,
Vọng cố hương diểu mạc,
Quy tứ nan thu.
Thán niên lai tung tích,
Hà sự khổ yêm lưu?
Tưởng giai nhân, trang lâu trường vọng,
Ngộ kỷ hồi, thiên tế thức quy chu.
Tranh tri ngã, ỷ lan can xứ,
Chính nhẫm ngưng sầu.
八聲甘州 - 柳永
對蕭蕭暮雨灑江天,
一番洗清秋,
漸霜風淒緊,
關河冷落,
殘照當樓。
是處紅衰綠減,
冉冉物華休。
惟有長江水,
無語東流。
不忍登高臨遠,
望故鄉渺邈,
歸思難收。
歎年來蹤跡,
何事苦淹留?
想佳人、妝樓長望,
誤幾回、天際識歸舟。
爭知我、倚欄杆處,
正恁凝愁。
Bát thanh Cam Châu
(Dịch thơ: Nam Trân)
Nhìn mưa chiều sầm sập xuống sông,
Một phen gột rửa trời thu,
Dần gió gào sương lạnh,
Núi sông tẻ ngắt,
Bóng xế ngang lầu.
Khắp nơi hồng rơi lục rụng,
Cảnh vật đã phai màu.
Chỉ có con sông Dương Tử,
Về đông lặng chảy làu làu.
Không nỡ lên cao trông với,
Nhìn quê xưa vời vợi,
Nỗi nhớ rầu rầu.
Ôi! Bao năm phiêu bạt,
Quê người chạnh nỗi buồn đau.
Người đẹp tựa lầu xa ngóng,
Tưởng thuyền về, lầm trước lẫn sau.
Biết đâu nơi lan can đứng tựa,
Lòng ta chung một mối sầu.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Liễu Vĩnh 柳永 (khoảng 987 - khoảng 1053) tự Kỳ Khanh 耆卿, người huyện Kỳ An, tỉnh Phúc Kiến. Năng cải trai man lục nói: “Từ tự Nam Đường trở xuống, chỉ có tiểu lệnh. Mạn từ tới thời vua Tống Nhân Tông (1023-1062) trung nguyên thanh bình, Biện kinh phồn thịnh, ca đài vũ tạ, đua thưởng tân thanh. Kỳ Khanh lưu liên phường khúc, thu hết lời nói quê mùa, biên vào trong từ, cho người truyền lưu ca xướng, rồi sau có Thiếu Du và Sơn Cốc kế tiếp, nên man từ trở thành đại thịnh”. Hiện Liễu Vĩnh còn Nhạc chương tập 樂章集 3 quyển.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment