Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ xuất hiện và tham gia vào nền âm nhạc miền Nam ngay từ đầu thập niên 1950, và có thể xem ông là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho dòng nhạc vàng mà chúng ta vẫn còn yêu thích cho đến ngày nay.
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ sinh ngày 1 tháng 7 năm 1929 tại làng Bích Khê, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông thuộc dòng họ Hoàng Hữu, là dòng họ khoa bảng lừng lẫy ở đất Quảng Trị, Trung Bộ. Những người khai khoa đầu tiên cho làng Bích Khê và dòng họ Hoàng là Hoàng Hữu Xứng, Hoàng Hữu Bỉnh và Hoàng Hữu Bính đều đậu cử nhân.
Hoàng Hữu Bỉnh chính là thân phụ nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và là ông nội của nghệ sĩ violin Hoàng Thi Thao (Hoàng Thi Thao gọi Hoàng Thi Thơ là chú ruột). Tỷ phú Hoàng Kiều hiện nay cũng là một trong những người cháu ruột của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.
Nếu tính từ ngài thượng thủy tổ Hoàng Công Hội là đời thứ 1, thì cụ Hoàng Hữu Xứng, Hoàng Hữu Bỉnh là đời thứ 13, Hoàng Hữu Bính và Hoàng Thi Thơ đời 14, các con của Hoàng Thi Thơ cùng với Hoàng Thi Thao, Hoàng Kiều và đời 15. Đời 16 có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan ở Huế.
Cố nghệ sĩ Hoàng Thi Thao kể: “Ông nội tôi có 24 người con. Tôi có tới 3 bà nội, và 3 bà cũng là chị em ruột nên rất thương nhau. Thật ra đó là sự cố ý bên phía bà nội tôi là không muốn cho ông nội tôi đi lấy phía ngoài. Như vậy chỉ có 1 dòng thôi, thành ra gần gũi nhau. Nhất là không muốn để lọt tài sản ra ngoài”.
Vì vậy tất cả anh chị em đều gần gũi và gắn bó với nhau, không phân biệt là con của bà mẹ nào. Ai sinh trước được làm anh, làm chị. Thân phụ Hoàng Thi Thao là người con trai cả và là người con thứ 7 của bà vợ cả trong số 24 người con này. Trước ông là 6 người chị gái. Trong khi đó nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, con của bà vợ út, là người con thứ 22 của cụ Hoàng Hữu Bỉnh.
Theo Hoàng Thi Thao cho biết thì “ông chú” Hoàng Thi Thơ đã tự học nhạc từ lúc còn trẻ, sau này ghi danh học hàm thụ với một trường nhạc và bước vào sự nghiệp sáng tác nhạc năm 20 tuổi.
Năm 1945, khi đang theo học ở trường Khải Định (nay là trường Quốc Học Huế), ông bỏ học để tham gia đoàn văn nghệ Quảng Trị do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba làm trưởng đoàn.
Năm 1946, ông cùng với nhạc sĩ Trần Hoàn gia nhập đoàn tuyên truyền kháng chiến trung bộ do nhà văn Hải Triều phụ trách.
Năm 1947, ông là phóng viên và biên tập viên báo Cứu Quốc ở liên khu 4 do Lưu Quý Kỳ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và nhà thơ Chế Lan Viên làm trưởng ban biên tập.
Năm 1948 ông quay lại nhà trường để hoàn tất chương trình học phổ thông tại trường Huỳnh Thúc Kháng ở Hà Tĩnh. Tại đây ông gặp và yêu một nữ sinh tên là Tân Nhân – cũng là một ca sĩ đang tham gia đoàn văn công mặt trận Bình Trị Thiên (sau này Tân Nhân trở thành một ca sĩ huyền thoại của dòng nhạc đỏ).
Sau khi học xong ở trường Huỳnh Thúc Kháng, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ theo học trường lục quân Trần Quốc Tuấn.
Năm 1951, Hoàng Thi Thơ về Huế thăm gia đình người anh ruột (là cha của Hoàng Thi Thao), với mục đích là muốn xin gia đình người anh một số tiền để trở lại vùng kháng chiến (tức Liên Khu Tư ở Thanh Hóa) để sau đó đưa người yêu ra Hà Nội để theo học trường Văn Khoa ở đây.
Nhưng khi trở về thì cả gia đình giữ Hoàng Thi Thơ lại và khuyên là không nên trở ra Liên Khu Tư, mặc dù ông rất nôn nóng muốn trở ra với người yêu. Cuối cùng ông cũng xiêu lòng trước những lời khuyên nhủ của những người thân nên quyết định vào Sài Gòn để được an toàn, còn người yêu của ông vẫn ở lại vùng kháng chiến. Kể từ đó coi như hai người chia tay nhau và không còn sự liên hệ chính thức nào nữa.
Ca sĩ Tân Nhân
Người yêu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là ca sĩ tên là Trương Tân Nhân, cùng hoạt động với ông trong Đoàn Tuyên Truyền Kháng Chiến Trung Bộ. Sau khi Hoàng Thi Thơ trở về Huế, bà Tân Nhân mới biết là đã mang thai. Người con của hai người tên Lê Khánh Hoài (lấy theo họ của người cha kế), hiện nay là nhà báo có bút danh Châu La Việt. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và người con này đã không thể gặp được nhau cho đến tận năm 1993, tức là sau 40 năm, khi Hoàng Thi Thơ trở về được Việt Nam và cha con trùng phùng. Lê Khánh Hoài cũng được nhạc sĩ đặt tên theo họ cha là Hoàng Hữu Hoài.
Trở lại thời kỳ năm 1952, khi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ dẫn 2 người cháu ruột là Hoàng Thi Thao và Hoàng Kiều vào Sài Gòn. Thời gian đầu, cuộc sống của họ rất chật vật, thiếu thốn. 3 chú cháu chỉ biết trông cậy vào số tiền của thân phụ Hoàng Thi Thao từ Huế gửi vào hàng tháng.
Thoạt đầu họ ở trọ tại căn nhà số 47 trên đường Catinat (tức đường Tự Do sau đó và là đường Đồng Khởi hiện nay) của một người quản gia cho một gia đình người Pháp. Lúc đó Hoàng Thi Thao lên 7 tuổi và bị ông chú bắt học đàn violin với một tay đàn violon lừng danh vào thời đó là Tạ Bôn. Hoàng Thi Thao kể: “Ông ấy muốn ép tôi học nhạc khí này. Ông ấy tưởng tôi thông minh lắm, tưởng là tôi có khiếu về nhạc lắm nên nhất định ép học violon cho bằng đựợc”.
Sau hơn một năm ở trọ căn nhà trên đường Catinat, ba chú cháu lại tiếp tục cùng nhau ở trọ tại một số nơi khác… Thời kỳ ở trọ trên đường Ký Con vào năm 1953, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã cho ra đời một tác phẩm rất hữu dụng là cuốn sách “Để Sáng Tác Một Bài Nhạc Phổ Thông”, rất nổi tiếng với những phần hướng dẫn về hòa âm, luật sáng tác…
Quyển sách dày 500 trang này xuất bản vào năm 1955 và sau đó được tái bản nhiều lần đã trở thành kim chỉ nam cho những người viết nhạc thời bấy giờ, được xem là sách gối đầu giường của các nhạc sĩ nổi tiếng Thanh Sơn, Ngọc Sơn, Thăng Long…
Hoàng Thi Thao cho biết nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ rất hiếu học nên giỏi cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp. Ông đã bắt đầu đi dạy học ngay sau khi vào Sài Gòn cho đến tận năm 1965, song song với những họat động văn nghệ. Một chi tiết ít người biết, ông từng là người dạy kèm cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ năm 1952 trong thời gian ở Huế.
Lúc vào Sài Gòn, gia đình Trịnh Công Sơn ngụ trên đường Đặng Trần Côn, và Hoàng Thi Thao thì theo học cùng trường Aurore với 2 em trai của Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Hà và Trịnh Công Tịnh.
Mặc dù không có liên hệ họ hàng, nhưng hai bên rất thân nhau, thể hiện qua cách xưng hô. Trịnh Công Sơn gọi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là cậu. Còn Hoàng Thi Thơ gọi thân mẫu Trịnh Công Sơn là chị.
Hoàng Thi Thao cho biết ông cũng không thể quên những buổi tối nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, trước khi lập gia đình vào năm 1957, chở ông trên chiếc xe Vespa cũ mèm đến những rạp chiếu bóng ở Sài Gòn và Chợ Lớn như Việt Long, Moderne, Thanh Bình, Cathay… để trình diễn vĩ cầm trong các chương trình phụ diễn tân nhạc vào thời đó.
Ngoài ra vào mỗi sáng Chúa Nhật, kể từ khoảng giữa thập niên 1950, “thần đồng vĩ cầm Hoàng Thi Thao” cũng tham gia vào những tiết mục phụ diễn cho chương trình Tuyển Lựa Ca Sĩ do đài phát thanh Sài Gòn tổ chức tại rạp Norodom, tức rạp Thống Nhất sau đó.
Cũng trong một cuộc tuyển lựa ca sĩ năm 1954, có một nữ thí sinh tên Thúy Nga, quê quán ở Sơn Tây, mới từ Bắc di cư vào Nam, đã lên sân khấu dự thi với nhạc phẩm Đường Lên Sơn Cước và tự đệm phong cầm một mình, không cần ban nhạc phụ họa. Hình ảnh người thiếu nữ 18 tuổi xinh xắn với mái tóc thề, lại có duyên và hát hay, đàn giỏi đó đã được nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ chú ý tới.
Hoàng Thi Thơ và ca sĩ Thúy Nga
Tiệc thành hôn của cặp nghệ sĩ Hoàng Thi Thơ và Thúy Nga đã diễn ra tại nhà hàng Văn Cảnh vào ngày 10 tháng 10 năm 1957, họ chung sống hạnh phúc cho đến khi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ qua đời năm 2001.
Gia đình nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ – ca sĩ Thúy Nga và các con (từ trái qua) Hoàng Thi Thương, Hoàng Thi Thư, Hoàng Thi Thanh, Hoàng Thi Thi
Trong bài viết của nhà báo Trường Kỳ, nghệ sĩ Hoàng Thi Thao có lần nói về cuộc sống về gia đình chú ruột của mình như sau: “Khó có ai chiều chồng như bà Thúy Nga. Biết chồng như vậy cho nên chiều ghê lắm! Rất là quý! Lại còn nhịn nhục ghê lắm. Biết ông Thơ có cái tánh nghệ sĩ, cho nên bà Thúy Nga, cũng là ca sĩ, cho nên hiểu và thông cảm được”.
Cố nghệ sĩ Hoàng Thi Thao nói rằng chú của mình là một người có tính rất “bay bướm” và ông cũng nhiều lần phải chứng kiến những trận ghen tuông giữa hai vợ chồng. Tuy nhiên một phần do tính của bà Thúy Nga rất hiền và một phần vì con cái nên kết cuộc mọi việc cũng được giải quyết êm xuôi.
Hoàng Thi Thơ và Thúy Nga trên hình bìa dĩa nhựa
Sau khi lập gia đình, Hoàng Thi Thơ bước vào một thời kỳ hoạt động văn nghệ hăng hái và có nhiều thành tựu. Trong lĩnh vực sáng tác, ông có nhiều nhạc phẩm đặc sắc được công chúng đón nhận qua giọng hát của nhiều ca sĩ ở Sài Gòn từ thập niên 1950, hát nhiều nhất là chính người vợ Thúy Nga cùng với đôi song ca Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết (nổi tiếng với 2 ca khúc Gạo Trắng Trăng Thanh, Trăng Rụng Xuống Cầu). Riêng với bài Gạo Trắng Trăng Thanh, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ còn ghi lời đề tặng:
“Riêng tặng hai bạn Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm, đôi giọng Nam Thương đã gieo trên giải đất đầy chim chóc nầy vô vàn âm thanh, đậm lòng như những bát cơm quê hai màu khoai sắn.”
Hoàng Thi Thơ là một nhạc sĩ sáng tác rất đa dạng, ông sáng tác nhiều thể loại, từ tình ca, trường ca, nhạc cảnh, mà nổi tiếng nhất là các bài nhạc quê hương, tình tự dân tộc, sau này nữa là nhạc lính.
Ngoài sở trường là các bài nhạc tình tự quê hương đã nhắc đến, Hoàng Thi Thơ còn có 2 bài hát theo lối kể chuyện độc đáo là Cô Lái Đò Bến Hạ và Chuyện Tình Người Trinh Nữ Tên Thi. Nhạc trữ tình thì ông có Đường Xưa Lối Cũ, Tà Áo Cưới, nhạc kích động có Túp Lều Lý Tưởng, Xây Nhà Bên Suối, và một loạt bài ca buồn rất được yêu thích là Xe Hoa Một Chiếc, Tango Nhớ, Rong Chơi Cuối Trời Quên Lãng, Mùa Thu Đông Kinh, Nhớ Thành Đô, Mùa Xuân Hoa Đào, nhạc lính có Tôi Nhớ Tên Anh, Tình Đêm Liên Hoan, Cái Trâm Em Cài…
Qua những ca khúc quen thuộc đã kể trên, có thể thấy khả năng sáng tác đa dạng của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, thành công với tất cả những thể loại nhạc mang sắc thái hoàn toàn khác biệt.
Ngoài việc sáng tác nhạc, nhạc sĩ Hoàng thi Thơ còn là người chuyên tổ chức và dàn dựng sân khấu. Năm 1961, ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm hơn 100 nghệ sĩ tên tuổi và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu cũng như nhiều thành phố trên thế giới: Viêng Chăn, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London… và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Năm 1967, Hoàng Thi Thơ thành lập tiếp Đoàn Văn Nghệ Maxim’s, gồm 70 diễn viên ca-vũ-nhạc-kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại vũ trường – phòng trà Maxim’s do ông quản lý. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ cũng là người duy nhất được chính quyền nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn…
Chuyến lưu diễn đầu tiên của đoàn văn nghệ Việt Nam với Hoàng Thi Thơ là trưởng đoàn và Lê Thương là phó đoàn đã diễn ra ở Nhật, Đài Loan và Hồng Kông vào năm 1961 với một thành phần nghệ sĩ lên đến cả trăm người thuộc đủ mọi bộ môn như ca, vũ, nhạc, kịch với sự chú trọng đặc biệt vào những tiết mục vũ và hợp xướng. Ông từng nói rằng mục đích của Đoàn Văn Nghệ Việt Nam là “giới thiệu ít nhiều khía cạnh văn nghệ của dân tộc có màu sắc Việt Nam”.
Hoạt động của đoàn văn nghệ này đã phải chấm dứt vào cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11. Theo bài viết của Trường Kỳ và lời kể của Hoàng Thi Thao, sau thời điểm này thì có thời gian nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ bị Hội Đồng QNCM truy tố về tội chuyển tiền ra ngoại quốc cho tổng thống Ngô Đình Diệm và ông bà Ngô Đình Nhu qua những chuyến lưu diễn của Đoàn Văn Nghệ Việt Nam. Ông phải vào tù Chí Hòa hơn một năm, thông tin này có khá ít người biết.
Nguyên nhân là Tổng Nha Ngân Khố tìm ra được những giấy tờ, theo đó ông Diệm và ông Nhu đã cấp phép cho Hoàng Thi Thơ đổi tiền Việt ra Mỹ Kim để dùng vào việc chi tiêu cho đoàn văn nghệ. Sự thật chỉ có vậy, sau đó xét thấy vô tội nên ông được trả tự do. Sau khi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ ra tù vào năm 1965, hai chú cháu Hoàng Thi Thơ – Hoàng Thi Thao và một số nhạc sĩ khác kết hợp thành một ban nhạc đi làm cho một vũ trường do gia đình khai thác tên Bồng Lai ở tận Qui Nhơn.
Đến cuối năm 1965, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ lại được chính phủ mời làm trưởng đoàn văn nghệ và đi trình diễn tại nhiều quốc gia ở Âu Châu và cả Châu Phi.
Vào khoảng những năm 1967-1968, sau khi vũ trường Maxim’s ở đầu đường Tự Do được bán cho giám đốc công ty kem đánh răng Hynos là Huỳnh Đạo Nghĩa, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ vẫn tiếp tục cộng tác với phòng trà này và đảm trách khâu tổ chức sân khấu, với chương trình được làm giống như các nhà hàng ca vũ nhạc nổi tiếng ở Paris như Moulin Rouge hoặc Lido.
Dưới tài tổ chức và khả năng nghệ thuật của Hòang Thi Thơ, đoàn văn nghệ Maxim’s đã trở thành một nơi quy tụ rất nhiều tài năng thuộc nhiều bộ môn nghệ thuật, nhất là vũ và nhạc kịch.
Theo một giao kèo ký với chính phủ Nhật vào năm 1974, đoàn văn nghệ Maxim’s với thành phần nghệ sĩ trên 20 người đã lên đường sang quốc gia này trình diễn vào ngày 10 tháng 3 năm 1975 trong khi miền Nam vẫn đang ở trong cơn biến loạn ngày càng tăng cao. Đó cũng là lần xa rời quê hương của những nghệ sĩ đoàn Maxim’s, vì khi Sài Gòn sụp đổ, họ vẫn đang ở Nhật và sau đó phải lưu lạc trên đất khách quê người.
Trước năm 1975, Hoàng Thi Thơ sáng tác trên 500 ca khúc, từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch.
Khoảng năm 1972-1973, ông sử dụng thêm bút danh mới là Tôn Nữ Trà Mi và sáng tác một loạt ca khúc mà báo chí thời đó gọi là “đem lại cho làng tân nhạc Việt Nam luồng sinh khí mới và cảm hứng tân kỳ” như Rước Tình Về Với Quê Hương, Việt Nam Ơi Ngày Vui Đã Tới, Ô Kìa Đời Bỗng Dưng Vui, Xây Nhà Bên Suối, Ngày Vui Lý Tưởng…
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và ca sĩ Họa Mi
Hoàng Thi Thơ cũng là người đã nâng đỡ hai ca sĩ Sơn Ca và Họa Mi, đào tạo hai người này trở thành những nữ ca sĩ nổi tiếng. Ngoài ra, trước năm 1975 tại Sài Gòn, ông có thực hiện ba băng nhạc mang tên ông với những giọng ca nổi tiếng:
- Hoàng Thi Thơ 1: Rước tình về với quê hương
- Hoàng Thi Thơ 2: Việt Nam như đóa hoa xinh
- Hoàng Thi Thơ 3: Đưa em qua cánh đồng vàng
Băng nhạc Hoàng Thi Thơ 1
Sau năm 1975, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ tiếp tục công việc tổ chức các đại nhạc hội tại nhiều nơi trên đất Mỹ cũng như trong việc thu băng hay video.
Những năm cuối đời, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ bị bệnh tim và qua đời trong vòng tay gia đình vào ngày 23 tháng 9 năm 2001, được an táng tại Vườn Vĩnh Cửu trong khuôn viên nghĩa trang Peek Family ở Orange County.
Băng nhạc Hoàng Thi Thơ 2
Đêm hôm trước ông còn nói chuyện rất vui vẻ với vợ cùng các con từ các nơi về thăm ông. Ông nói với vợ là thèm ăn cơm với cá kho và vài món yêu thích. Sáng sớm hôm sau, vợ ông chuẩn bị đi chợ để làm theo ý ông. Trước khi đi, bà còn vào thăm ông. Nhưng gõ cửa thì không thấy trả lời. Đến khi đẩy cửa vào thì biết ông đã êm ái từ giã cõi đời.
No comments:
Post a Comment