Trong vòng 1500 năm trở lại đây, những đánh giá của thế nhân đối với vị Hoàng đế Trung Hoa thời kỳ Nam Bắc triều - Lương triều Hoàng đế Tiêu Diễn (năm 464~549) có thể nói là khác nhau một trời một vực. Có người ca ngợi công đức hoằng dương Phật Pháp của ông. Lại còn bị những kẻ không tin Thần Phật lấy làm dẫn chứng “Tại gia phá gia, tại quốc phá quốc” (Ở nhà thì phá nhà, làm vua thì phá nước).
Vậy cuối cùng thì Lương Vũ Đế là vị “Tấm gương đại đức” hồng dương Phật Pháp, hay là đệ tử của Ma vương Ba Tuần “Nịnh Phật mất nước” đây?
Trong tâm Lương Vũ Đế không có bách tính
Lương Vũ Đế thúc đẩy Phật giáo, có thể nói là đã dốc hết sức mình. Trong bài “Giang Nam xuân” của nhà thơ thời Đường Đỗ Mục có câu:
Giang Nam tứ bách bát thập tự
Đa thiểu lâu đài yên vũ trung
Tạm dịch:
Giang Nam bốn trăm tám mươi chùa
Bao nhiêu đền đài trong khói mưa
480 ngôi đền chùa là được xây ở thời Lương Vũ Đế.
Nhiều người đều biết, khi Tổ Đạt Ma đến Trung Nguyên, Lương Vũ Đế gặp Đạt Ma, câu hỏi đầu tiên là: “Trẫm từ khi tại vị, xây chùa viết kinh, độ tăng, nhiều vô kể, vậy có công đức thế nào?”
Tổ Đạt Ma nói: “Không có công đức gì cả”.
Lương Vũ Đế hội kiến Tổ Đạt Ma
Sau đó, Lương Vũ Đế hỏi câu thứ hai: “Tại sao lại không có công đức?”
Tuy Tổ Đạt Ma cho ông ta đáp án, nhưng Lương Vũ Đế cả đời không hiểu được.
Khi Lương Vũ Đế gặp Đạt Ma, vội vàng hỏi hai câu, có thể biết điều ông ta quan tâm nhất là gì, đó là: “Tôi có công đức gì?”.
Rõ ràng xuất phát điểm của hành vi là mục đích tích công đức cho mình. Chưa cần nói đến tu Phật, chỉ cần là một hoàng đế thế tục, thì các công việc văn trị võ công, trị lý quốc gia, đều cần có xuất phát điểm là vì lợi ích của trăm họ, là để lợi cho người khác, nó rất cao thượng. Nếu nói điều quan tâm nhất chỉ là mình có được gì, đó kỳ thực là tâm tự tư, là để chấp chính chứ không vì yêu thương dân.
Biểu hiện của Lương Vũ Đế ở thời kỳ cuối cùng của sinh mệnh, đã cho ta thấy rõ điều này.
Khi ấy Nam triều có khoảng 8 triệu người, thì tám, chín phần mười đã chết vì chiến tranh, hỏa hoạn, chém giết. Lương Vũ Đế 86 tuổi, đối mặt với tình cảnh như vậy mà suy xét sự việc, vẫn dựa trên cơ điểm là được mất của bản thân. Khi biết tin từ thuộc hạ là không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, Tiêu Diễn liền buông một câu: “Xã tắc là do ta đắc được, tự ta làm mất, chẳng có gì đáng phải hối hận cả”.
Từ câu này, không thấy vị trí của thương sinh bách tính, không chút quan tâm, trách nhiệm nào đối với bách tính.
Do vậy, có thể nói Lương Vũ Đế là cực kỳ tự tư, người như vậy không thể làm một hoàng đế tốt. Sự thực chứng minh như vậy.
Lương Vũ Đế hết sức phóng túng cho thân tộc tông thất, vơ vét vị tư, bẻ cong phép tắc, xa hoa vô độ, cậy mạnh hiếp yếu, dung túng bao che cho việc tàn hại dân lành, vô pháp vô thiên. Nhưng đối với bình dân bách tính lại vô cùng tàn nhẫn, dùng cực hình hà khắc, dân chúng phạm tội là bị liên tọa (một người bị tội, cả nhà vạ lây), già trẻ không tha; một người chạy trốn, cả nhà bị phạt lao dịch, dân chúng có oan chẳng biết kêu ai. Sử sách gọi ông ta là: “Bắt người vô tội, bức bách người thiện, dân chúng ly tán, vườn ấp bỏ hoang, cướp nổi như ong, trộm đạo thành bầy”.
Cuối triều nhà Lương, người người muốn loạn, khởi nghĩa không ngừng.
Lương Vũ Đế về phương diện tu Phật thì chỉ là kẻ đứng ngoài cửa
Từ góc độ tu Phật mà nhìn, Lương Vũ Đế là người thế nào?
Từ câu trả lời của Tổ Đạt Ma, có thể thấy đáp án:
“Những thứ bệ hạ làm, toàn là thứ tiểu đức chỉ có hình thức suông, như ảnh tùy hình, bề mặt nhìn thì là thấy, nhưng thực chất là không có gì”;
“Trí tuệ thanh tịnh mỹ diệu viên dung, vứt bỏ tự kỷ, đạt tới không tịch vô ngã. Công đức như vậy, không phải dựa vào hữu vi thế tục cầu mà đắc được”.
Cho nên, việc Lương Vũ Đế làm, gồm cả việc đại hưng Phật Pháp, xây chùa dựng miếu, đều là hữu vi. Nếu việc xây chùa dựng miếu, đơn thuần xuất phát từ lòng thành kính Phật, muốn hoằng dương Phật Pháp, tạo phúc chúng sinh mà không vì mưu cầu công đức cho bản thân, như vậy Phật sẽ ban cho thịnh thế phồn vinh, như thời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, ba vị hoàng đế đại hưng Phật Pháp, khiến nhà Thanh có thời Khang Càn thịnh thế.
Tiếc thay, Lương Vũ Đế xây chùa chỉ nhằm mưu cầu công đức cho mình, vì cái tâm tự tư mạnh mẽ này, mà không thể đắc công đức. Phật có thực coi trọng tài vật cúng lễ trong đình chùa không? Không! Phật chỉ nhìn nhân tâm. Để thỏa mãn tư tâm mà làm ra việc cầu cúng, so với việc tu Phật chân chính thì hoàn toàn là đi ngược lại. Do vậy, có thể nói Lương Vũ Đế không hiểu gì về tu Phật.
Từ góc độ tu Phật mà nhìn, Lương Vũ Đế là người thế nào?
Từ câu trả lời của Tổ Đạt Ma, có thể thấy đáp án:
“Những thứ bệ hạ làm, toàn là thứ tiểu đức chỉ có hình thức suông, như ảnh tùy hình, bề mặt nhìn thì là thấy, nhưng thực chất là không có gì”;
“Trí tuệ thanh tịnh mỹ diệu viên dung, vứt bỏ tự kỷ, đạt tới không tịch vô ngã. Công đức như vậy, không phải dựa vào hữu vi thế tục cầu mà đắc được”.
Cho nên, việc Lương Vũ Đế làm, gồm cả việc đại hưng Phật Pháp, xây chùa dựng miếu, đều là hữu vi. Nếu việc xây chùa dựng miếu, đơn thuần xuất phát từ lòng thành kính Phật, muốn hoằng dương Phật Pháp, tạo phúc chúng sinh mà không vì mưu cầu công đức cho bản thân, như vậy Phật sẽ ban cho thịnh thế phồn vinh, như thời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, ba vị hoàng đế đại hưng Phật Pháp, khiến nhà Thanh có thời Khang Càn thịnh thế.
Tiếc thay, Lương Vũ Đế xây chùa chỉ nhằm mưu cầu công đức cho mình, vì cái tâm tự tư mạnh mẽ này, mà không thể đắc công đức. Phật có thực coi trọng tài vật cúng lễ trong đình chùa không? Không! Phật chỉ nhìn nhân tâm. Để thỏa mãn tư tâm mà làm ra việc cầu cúng, so với việc tu Phật chân chính thì hoàn toàn là đi ngược lại. Do vậy, có thể nói Lương Vũ Đế không hiểu gì về tu Phật.
Hoàng đế có tư cách gì mà viết kinh Phật?
Lại nói đến viết kinh, ở đây là nói về việc ông ta viết kinh “Siêu độ” cho Hoàng hậu. Sử sách viết rằng Hoàng hậu Si Thị của Lương Vũ Đế, do tâm tật đố quá mạnh mà hại chết cung phi của Vũ Đế, chịu báo ứng chuyển sinh thành một con mãng xà, bị nhốt trong giếng, bị độc trùng cắn xé, bị nung đốt đớn đau, nên hiện lên cầu xin Lương Vũ Đế siêu độ cứu khổ. Lương Vũ Đế liền cùng cao tăng chế định ra “Từ bi đạo trường sám pháp” (còn gọi là “Lương Hoàng bảo sám”, gồm 10 quyển, đến nay vẫn thịnh hành), để siêu độ cho Hoàng hậu.
Chỉ kinh Phật mới có thể giáo hóa độ nhân, điều Hoàng đế viết không thể độ nhân, đó là làm loạn Phật Pháp
Kinh Phật là ghi chép những lời của Phật, do đó là lời Phật, nên đằng sau chứa đựng nội hàm cao tầng, mang lực lượng độ nhân. Vậy một kẻ còn đứng ở ngoài cửa lại viết kinh, giải thích kinh Phật. Trên thực tế, đó chính là hành vi phá hoại Phật Pháp. Việc này cũng giống như đệ tử của Phật giải thích về Phật Pháp. Khi đệ tử dựa vào lý giải của bản thân trong khi tu luyện, để giải thích lời Phật giảng, do không cùng tầng thứ với Phật Thích Ca Mâu Ni, nên giải thích thế nào thì cũng không phải là nguyên ý của Phật, còn mang Phật Pháp của Phật Đà giải thích đến mức sai khác hoàn toàn, tầng thứ biến thành rất thấp.
Đây là lý do tại sao trong kinh điển Phật giáo “Đại bát Niết bàn kinh” có ghi lại đoạn đối thoại chấn động của Phật Thích Ca Mâu Ni và ma vương Ba Tuần.
Khi ma vương Ba Tuần nói với Phật: “Đến thời mạt Pháp của Ngài, ta cho con, cháu ta trà trộn vào trong tăng bảo, mặc cà-sa, phá hoại Phật Pháp của Ngài. Để bọn chúng giải thích kinh điển, phá hoại giới luật của Ngài, để đạt được mục đích mà nay vũ lực của ta chưa thể đạt đến…”
Phật Tổ nghe xong, lặng im hồi lâu không nói, hai hàng lệ chầm chậm chảy xuống. Ma vương thấy vậy, cười lớn, và dẫn quân rời đi.
Trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni viên tịch, “Đại bát Niết bàn kinh” quyển 7 viết: “Phật dặn Ca-Diếp: Sau khi ta nhập Niết bàn 700 năm, là lúc ma vương Ba Tuần dần dần phá hoại chính Pháp. Chúng như kẻ đi săn mặc cà-sa, ma vương Ba Tuần cũng quay trở lại…”
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni viên tịch khoảng 1000 năm, Lương Vũ Đế thực ra chưa đắc Pháp tu, chỉ là người thường, mà cũng biên soạn viết kinh, lấy những điều của mình đem trộn lẫn vào kinh Phật, lưu truyền hậu thế, khởi tác dụng như ma vương Ba Tuần đã nói.
Phỉ báng Nho, Đạo, định nghĩa loạn đệ tử Phật
Lương Vũ Đế ban đầu theo Đạo gia, sau lại cải sang tín Phật, mang Lão Tử, Khổng Tử quy thành đệ tử của Phật Như Lai, nói họ theo bàng môn tà đạo. Trong một chiếu thư, chương “Sắc xá Đạo sự Phật” (Sắc chỉ bỏ Đạo thờ Phật) nói: “Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử tuy là đệ tử của Như Lai, nhưng đã biến thành tà.”
Lương Vũ Đế còn nói bách quan và hoàng tộc nên cùng ông ta cải sang tín Phật, mà “Phản ngụy tựu chân, xả tà nhập chính.”
Kỳ thực, Phật gia và Đạo gia đều là hai thể hệ lớn tu luyện độ nhân, sao có thể gộp lẫn vào nhau được. Hơn nữa, tu Phật hoặc tu Đạo, đều là do duyên phận và lựa chọn của mỗi người, sao có thể cưỡng bách được!
Văn hóa truyền thống phương Đông bắt đầu hình thành dưới sự bảo hộ của Đạo gia, ví dụ Hoàng Đế học Đạo của Quảng Thành Tử, sau khi tu thành cưỡi rồng bạch nhật phi thăng, đây đều là sự việc xảy ra trước khi Lão Tử viết “Đạo Đức Kinh”, cũng là sự tình có trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh.
Do vậy, Lương Vũ Đế nói: Lão Tử, Khổng Tử đều là đệ tử của Phật Như Lai, thực là cực kỳ hoang đường.
Hoàng đế nhà Lương -Tiêu Diễn (năm 464~549). (Ảnh nguồn: Miền công cộng)
Lương Vũ Đế làm một Hoàng đế hòa thượng, mang tính mê hoặc rất lớn, rất nhiều người cho rằng, ông ta là một tín đồ Phật giáo kiền thành, nhưng lại gây ra hậu quả là: không chỉ cả triều đại bách tính sinh linh lầm than, mà còn bị những kẻ phản Phật hậu thế lấy đó làm vũ khí để công kích Phật.
Ví dụ, năm Vũ Đức thứ 9 (năm 626) đời Đường Cao Tổ, Thái sử lệnh Phó Dịch cực lực cổ vũ diệt Phật, luận chiến với tể tướng Tiêu Vũ, người thành tín Phật giáo. Phó Dịch lấy chuyện Tiêu Diễn là tín đồ Phật giáo mà nước mất nhà tan làm dẫn chứng, Tiêu Vũ không biết nói sao, bại trận, dẫn đến Lý Uyên hạ Thánh chỉ diệt cả Phật, Đạo. May sao Thánh chỉ chưa kịp thi hành, thì được người kế vị là Đường Thái Tông Lý Thế Dân ngăn lại. Tuy đại họa không xảy ra, nhưng ước tính có không ít người do đọc kinh Phật do Lương Vũ Đế biên soạn, mà bị ảnh hưởng đến việc tham ngộ chân ý của Phật Pháp!
Thái Bình / NTDTV
Theo Visiontimes