Sunday, September 1, 2024

TẠI SAO LÃ ĐỘNG TÂN NÓI: "TA THÀ ĐỘ ĐỘNG VẬT CÒN HƠN ĐỘ NHÂN!"

Trong Bát tiên lưu truyền rất nhiều kỳ tích trong việc trừng trị cái ác và hồng dương điều thiện, cứu độ con thế gian và giảm bớt sự đau khổ. Tám vị thần bất tử là Trương Quả Lão, Hán Trung Ly, Hàn Tương Tử, Thiết Quản Lý, Tào Quốc Cữu, Lã Động Tân, Hà Tiên Cô và Lam Thải Hòa.


Theo dân gian, tám vị thần bất tử này tượng trưng cho nam, nữ, già, trẻ, giàu, sang, nghèo, hèn thuộc các tầng lớp khác nhau trên thế gian, và muốn nhắn nhủ thế gian rằng: mọi người ở mỗi tầng lớp khác nhau trong xã hội đều có thể trở thành bất tử thông qua tu luyện.

Lã Động Tân lúc 5 tuổi đã vượt qua 2 người thầy

Lã Động Tân, họ Lữ tên Nham, tự là Động Tân người thời nhà Đường, được xưng là Lã Tổ. Họ Lữ làm quan từ bao đời nay, cha của Lã Động Tân là Lã Nhượng quê ở quận Vĩnh Lạc, Phổ Châu, ông là Thứ sử Hải Châu lúc bấy giờ, tương truyền rằng trước khi sinh ra ông, mẹ của Lã Động Tân đã có hai lần thu mộng thấy điềm báo: bà đã nhìn thấy có rất nhiều vị thần xếp hàng để phái đệ tử đi đầu thai. Khi Lã Động Tân sinh ra, trong nhà tỏa ra hương thơm, ngoài trời có tiếng nhạc du dương.

Năm bốn tuổi, Lã Động Tân đã học xong kinh sử,lên năm tuổi ông đã có thể vượt qua hai người thầy, lên tám tuổi ông đã có thể đọc thuộc lòng và làm thơ. Khi đối mặt với sự kiểm tra của cha mình, Động Tân luôn có thể đối đáp trôi chảy, và cũng có thể bày tỏ những quan điểm và kiến giải khác nhau. Lã Nhượng vì thế mà cảm thán nói: “Đây là con ngựa ngàn dặm của nhà ta.”

Lã Động Tân cũng nói với cha mình rằng: “Học Khổng Tử là con đường đúng đắn để nhập thế gian. Lời nói của ông ấy dễ hiểu và thân thiện, và ông ấy có thể làm hình mẫu cho người khác. Nếu mọi người đều như vậy, thế gian có thể hòa bình, nhất thời không phải cai quản. Về phần nghĩa trọng sinh thì xưa nay Trong “Đạo Đức Kinh” ai cũng tu hành, trị vì vạn năm cũng không bao giờ có loạn … ”

Lã Động Tân – Ảnh Internet

Thề sẽ cứu độ 3.000 người

Một ngày nọ, Lã Động Tân hỏi sư phụ Hán Trung Ly của mình : “Đệ tử đã được Sư phụ giải thoát, siêu thoát sinh tử, có được bí quyết trường sinh vô cùng vi diệu, trong đạo môn của chúng ta vẫn còn có tận cùng của luân hồi sao?

Hán Trung Ly nói: “Đó là vô tận! Kể từ khi vũ trụ bắt đầu hỗn độn đến nay, một tiểu kiếp khiến thế gian hỗn loạn, thánh nhân đã tận, Nho giáo cũng đã kiệt, đạo giáo và nho giáo cũng đã kiệt. Đây là số kiếp.

Lã Động Tân lại hỏi: “Vào ngày sư phụ thành đạo, lúc đó là bao nhiêu tuổi?

Hán Trung Ly nói: “Tính từ đời Hán đến đời Tống là 1.000 năm có lẻ”

Lã Động Tân hỏi: “Sư phụ 1.100 năm, cứu được bao nhiêu người?”

Hán Trung Ly nói, “Con chỉ có thể cứu được 1 người”

Lã Động Tân hỏi: “Tại sao con chỉ cứu được một đệ tử? Có phải do môn phái của chúng ta không chịu từ bi cứu độ chúng sinh?. Nếu sư phụ cho đệ tử ba năm, chỉ ở mảnh đất Trung Nguyên này con sẽ cứu độ 3000 người, quảng truyền Đạo pháp chúng ta”.

Hán Trung Ly nghe vậy thì cười lớn: “Thưa thầy, im đi! Trên đời có rất nhiều người bất trung, và cũng có rất nhiều người bất hiếu. Người không nhân từ và bất chính làm sao có thể trở thành thần thánh được ? ta đã dạy được ba năm, nhưng ta cũng chỉ có tìm được một người có thành quả đó là con mà thôi”.

Lã Động Tân nói: “Hôm nay con xin từ biệt sư phụ, đệ tử đi vân du.”

Vô duyên đối diện bất tương phùng

Sau khi Lã Động Tân nói lời từ biệt với sư phụ của mình, ông quyết định tìm kiếm người mà ông có thể độ nhân. Tuy nhiên, ông tìm kiếm cả năm trời cũng không tìm được ai có nhân duyên.

Vào một ngày, Lã Động Tân lên đỉnh Thái Hư ngắm cảnh, từ xa ông đã nhìn thấy một thanh khí trung thiên – khí xanh bay lên. Lã Động Tân đến nơi có thanh khí hiện lên, sau khi dò hỏi,mới biết là ở phủ thành Tây Kinh Hà Nam có một vị hậu duệ của Ân Khai Sơn thời Đường, người này hơn 30 tuổi, có 7 đời là thân nữ nhi, không xuất giá, mấy đời phụng đạo, tích được âm quả.

Lữ Động Tân hóa thành một vị đạo nhân bẩn thỉu, đi tới trước cửa hàng Ân Gia. Vị phu nhân kia mặc trang phục đạo sĩ, hai đầu lông mày tiềm ẩn thanh khí. Động Tân gọi “Kê Thủ”,vị phu nhân lúc đó đang nói chuyện với người trong cửa hàng, và khi nghe thấy giọng nói, vị phu nhân quay lại và nói: “Ông đã vất vả quá”

Lã Động Tân đắc đạo thành tiên

Động Tân bước tới để xem xét và thấy người phụ nữ đó nộ khí quá nặng nên Động Tân nói: “Thật đáng tiếc!” Sau đó ông nhét một mảnh giấy vào tay áo, trong có bốn câu thơ:

Xuất sơn phát nguyện độ tam thiên,
Tầm biến diêm phù độ kết duyên.
Đặc địa lai thì chân hữu ý,
Khả liên Ân thị cốt nan tiên.

Dịch nghĩa:

Rời núi có nguyện vọng độ 3 ngàn người,
Tìm khắp Diêm Phù chưa có ai kết duyên.
Khu đắc địa này lúc đến thật có ý,
Đáng tiếc người họ n xương khí khó mà thành Tiên.

Sau bài thơ, ông viết: “Khẩu khẩu Tiên tác.” Ân Thị mở ra, vừa nhìn nhận ra nhìn thấy 口口 (khẩu khẩu) chính là chữ Lã (吕),biết người bên kia là hóa thân của Lã Tổ, bà vội vàng đổi theo, nhưng người đàn ông đã biến mất như một cơn gió. Đó chính là “Vô duyên đối diện bất tương phùng”.

“Bất thức Lư Sơn chân diện mục” – không thấy được dạng thật của núi Lư Sơn

Ở Đông Kinh Khai Phong phủ phố Mã Hàng có một vị quan viên tín phục Đạo giáo tên là Vương Duy Thiện, vì chúc mừng sinh nhật của Thuần Dương chân nhân. Đã chuẩn bị trai tiệc chiêu đãi 2000 đạo sĩ đến lập đàn tại nhà.

Lã Động Tân biết tin, biến thành một người đàn ông nghèo xơ xác, trên người đầy mụn nhọt. Nhìn thấy Vương Duy Thiện là một vị minh quân, giữa lông mày hiện lên lục quang, nhận thấy ông ta một lòng muốn tìm đường tu đắc Đạo, nhưng cơ hội chưa tới. Lã Động Tân suy nghĩ một lúc, và quyết định sử dụng công năng của mình để khai sáng cho ông ta.

Sau khi trai tịnh đã xong, Lã Động Tân nói với Vương Duy Thiện: “Bần Đạo thích vẽ tranh thủy mạc, hãy mang lụa đến, ta muốn vẽ một bức thủy mặc để tạ ơn”. Mọi người nhìn thấy Lã Động Tân vẩy mực lên lụa và làm rách tấm vải lụa. Vương Duy Thiện thấy vậy nói: “Người này thật lỗ mãng! Lừa gạt quan hạ! Đem hắn đi.”

Thấy Vương Duy Thiện tức giận, Lã Động Tân quay người bỏ đi. Khi đám đông đến, Lã Động Tân đã biến mất trong một làn gió. Chỉ thấy trên không có một tờ giấy trắng, mọi người mở ra trong đó có bốn câu thơ:

Trai Đạo dục cầu tiên cốt,
Cập chí ngã lai bất thức.
Yếu tri bần đạo tính danh,
Đán khán quyên hạ đan đích.

Dịch nghĩa:

Đến trai Đạo để tìm tiên
Ngay khi ta đến lại không biết
Muốn biết tính danh của bần đạo
Nhìn vào tranh lụa là thấy ngay.

Vương Duy Thiện cầm lấy tấm lụa, vừa nhìn là thấy chân dung toàn thân của Lã Động Tân, lúc này mới biết quý nhân tới là thần, nhưng hối hận đã muộn.

Sau đó Vương Duy Thiện xin triều đình từ quan và đi tu ở núi Võ Đang.

Lã Động Tân triển hiện Thần uy – Ảnh: Internet

Có tâm cứu người, không ngộ rượu biến thành nước giếng.

Một lần, Lã Động Tân, đóng giả làm người bán dầu, đi tới đi lui trên phố để bán dầu, để tìm người có thể cứu độ. Còn tiêu chuẩn của ông là: người đến mua dầu mà không đòi lấy thêm dầu liền được ông hóa độ.

Đáng tiếc là Lã Động Tân đã bán dầu được vài năm, ai mua cũng chỉ muốn đổ thêm một ít dầu, khi đó chỉ có một bà lão đến mua dầu, bà ta mua bao nhiêu đều không đòi hỏi đổ thêm dầu. Sau đó Lã Động Tân hỏi bà lão: “Mọi người mua dầu đều muốn đổ thêm, tại sao bà không cần thêm?” Bà lão trả lời: “Bán dầu không dễ, làm sao bà có thể xin thêm được”. Bà lão về sau còn mang rượu đến để tạ ơn Lã Động Tân.

Lã Động Tân vì muốn cứu độ bà, nên đã ném vài hạt gạo xuống giếng trong san của bà lão và nói với bà lão rằng bán nước giếng sẽ kiếm được nhiều tiền. Lã Động Tân nói xong liền rời đi. Bà lão nhìn vào thì thấy nước trong giếng đã thành rượu. Bà lão sau đó bắt đầu bán rượu trong giếng, bán được một năm thì kiếm được rất nhiều tiền.

Một ngày nọ, Lã Động Tân đến nhà bà cụ, thì xảy ra chuyện, bà cụ đã ra ngoài và chỉ có con trai của bà cụ ở nhà. Lã Động Tân hỏi con trai bà lão: “Mấy năm nay rượu bán thế nào?” Người con trai nói: “Cũng tốt, nhưng tiếc là rượu không cho lợn ăn được.” Nghe xong Lã Động Tân không khỏi than thở: “Con người tham lam đến mức này sao?”.

Sau đó ông lấy gạo trong giếng và rời khỏi nhà của bà lão. Khi bà lão trở về nhà, bà bàng hoàng phát hiện rượu trong giếng đã biến thành nước. Bà lão vội vã ra ngoài tìm Lã Động Tân nhưng chẳng thấy một bóng người.

Lã Động Tân từ Nhạc Dương đến Động Đình. Sau đó ông để lại bài thơ: Ba lần đến Nhạc Dương người không biết – Ngâm thơ bay qua Động Đình hồ.

Thần cứu người bằng cách nhìn vào lòng người, thấy người ta làm việc thiện thì ban thưởng, phước báu này có thể là của cải, sức khỏe, bình an, thậm chí là quan chức, địa vị.

Tuy nhiên,việc thưởng phước cho người tốt là làm cho người ta tiếp tục hướng thiện, nâng cao đạo đức của bản thân, nếu vì phước báo mà tham lam thì sẽ mất phước vì lòng tham. Vì vậy, Lã Động Tân đã lấy gạo từ giếng lên.

Trong suốt quãng thời gian ở trần thế Lã Động Tân đã chứng kiến cảnh con người đã quá mê ở chốn người thường, không thể cứu độ được. Nên ông nói một câu: “Ta thà độ động vật còn hơn độ nhân”.

Nguyệt Hòa / Theo: vandieuhay

No comments: