Thursday, July 16, 2020

PHIÊN TÒA XÉT XỬ MỘT VỤ ĂN TRỘN BÁNH MÌ Ở NEW YORK NĂM 1935

Đây là một câu chuyện xảy ra giữa thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ (kéo dài từ năm 1929 tới nửa sau thập niên 30) tại một nơi nghèo nhất trong thành phố New York. Câu chuyện sau này đã được ghi nhận trong nhiều cuốn sách như “Best Sermons 1” (1988); “Say Please, Say Thank You: The Respect We Owe One Another” (1999); hay “Ragamuffin Gospel” (2000).


Một buổi tối lạnh lẽo tháng 1/1935 tại một phường khó khăn nhất thuộc thành phố New York, một phiên tòa nhanh diễn ra. Bị cáo là một phụ nữ rách rưới, bị buộc tội ăn trộm một ổ bánh mì. Khuôn mặt bà âu sầu, ẩn ước vẻ xấu hổ.

Quan tòa hỏi: “Bị cáo, có đúng là bà đã ăn trộm bánh mì không?”

Người phụ nữ cúi đầu và lúng túng trả lời: “Đúng vậy! Thưa quan tòa, tôi thực sự đã ăn trộm bánh mì!”

Quan tòa lại hỏi: “Động cơ ăn trộm bánh mì của bà là gì? Có phải vì đói khát không?”

“Đúng ạ!” Người phụ nữ ngẩng đầu lên, đôi mắt nhìn vị thẩm phán và nói: “Đúng là tôi đói. Con rể đã bỏ rơi gia đình, con gái tôi thì bị bệnh còn 2 đứa cháu nhỏ đang chết đói. Chúng đã mấy ngày hôm nay không được ăn rồi. Tôi không thể trơ mắt nhìn chúng chết đói được, chúng vẫn còn quá nhỏ!”

Nghe người phụ nữ nói xong, mọi người xung quanh bắt đầu lầm rầm những tiếng bàn tán.

Tuy nhiên, người chủ cửa hàng nơi bị trộm bánh mì thì không đồng ý tha thứ. “Đây là một vùng kém an ninh, thưa Ngài,” ông nói. “Bà ấy phải bị trừng phạt để làm gương cho những người khác.”

Vị quan tòa thở dài, nhìn về phía người phụ nữ và nói: “Bị cáo, tôi phải làm việc theo lẽ công bằng, chấp hành theo pháp luật. Bà có hai lựa chọn: nộp phạt 10 đô la hoặc chấp nhận bị giam 10 ngày.”

Vị quan tòa này thực chất là thị trưởng của thành phố New York khi đó, ông Fiorello LaGuardia. Sau khi đọc tuyên án trên, ông đồng thời cũng đưa tay vào túi, lấy ra một tờ tiền và thả vào chiếc mũ của mình. Ông nói lớn, “Đây là 10 đô la mà tôi sẽ trả cho án phạt này. Ngoài ra tôi phạt mỗi người trong phòng xét xử này 50 cent, đó là số tiền phạt cho sự thờ ơ của chúng ta khi ở cùng khu phố mà lại để cho một người phụ nữ phải đi ăn trộm bánh mì về nuôi cháu. Ông Baliff, hãy đi thu tiền và đưa tặng cho bị cáo.”

Bức ảnh nổi tiếng thời Đại suy thoái ở Mỹ có tên “người mẹ di cư” của Dorothea Lange chụp năm 1936.

Ngày hôm sau, tờ báo thành phố New York đưa tin đã có 47,5 đô la được gửi đến cho người phụ nữ khốn khó kia. 50 cent trong đó là do người chủ cửa hàng tạp hóa đóng góp, ngoài ra còn có khoảng vài chục bị cáo khác đang chờ xét xử, và các cảnh sát có mặt khi đó, họ đều vinh hạnh được đóng góp 50 cent và đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt.

Mark Twain từng nói rằng: “Lương thiện là một loại ngôn ngữ phổ quát của thế giới, nó có thể khiến cho người mù cảm nhận được và người điếc nghe thấy được.” Khoản tiền phạt mà mọi người thành tâm nộp đã cho thấy: “lương thiện” không chỉ là một loại phẩm chất đối lập với sự lạnh lùng, gian trá, tàn nhẫn và tư lợi, mà còn là một loại khế ước về tinh thần. Con người đến thế gian này, với tư cách là một phần tử trong xã hội, là tự nhiên đã có một bản hợp đồng với xã hội. Hợp đồng đó chính là: Không bán rẻ lương tri.

Lòng người chỉ có hướng thiện mới có thể được ánh mặt trời chiếu rọi. Người hiểu được khế ước lương tri chính là người cao quý. Còn người sáng suốt thì biết được rằng họ sẽ phải trả giá đắt cho sự thờ ơ.

Phong Trần / Trí Thức Trẻ