Sunday, August 6, 2023

SẢN VẬT LẠNG SƠN (PHẦN 2)

Lạng Sơn là thành phố nằm phía Đông Bắc Việt Nam nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Du khách đến với Xứ Lạng không chỉ mãn nhãn với cảnh sắc hùng vĩ, thả hồn cùng sông núi, mà còn được thưởng thức nhiều sản vật mang đậm hương vị vùng núi rừng nơi đây.


Na Chi Lăng

Na Chi Lăng đúng như tên gọi là loại quả được trồng ở huyện Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn. Giống na huộc loại ngon có tiếng mà chỉ người sành ăn mới biết đến vì món đặc sản này số lượng không có nhiều, chỉ có những vườn na ở huyện Chi Lăng mới cho quả na đạt hương vị thơm ngon nhất.


Na nơi đây có vị đặc trưng khác biệt hơn so với các vùng khác trồng bởi na Chi Lăng được trồng trên những núi đá vôi cao hơn 200m so với mặt nước biển. Điều đặc biệt, càng lên cao, cây na càng phát triển tươi tốt và cho quả rất to. Vào khoảng tháng 7 âm lịch là mùa thu hoạch na rộ nhất, na cho nhiều quả to, trung bình quả nặng từ 0,6 đến 0,8 kg.

Na Chi Lăng thịt trắng, ít hạt.

Quả na Chi Lăng được chia làm hai loại bao gồm na bở và na dai. Quả na dai thường sẽ để được lâu hơn, thịt trắng, ít hạt không dễ nát, ăn ngọt và quả dễ bóc. Khi ăn, dễ nhằn hạt khỏi múi và múi quả cũng dai ngon hơn. Trong khi đó loại na bở có vị ngọt tự nhiên nhưng vỏ na lại khó bóc hơn.

Mắt na Chi Lăng to và đều, chỉ cần nhẹ nhàng bóc vỏ, tách đôi quả sẽ thấy lớp cơm trắng ngần hiện ra ngon lành. Thêm nữa, múi na dày thịt trắng ngần xen lẫn hạt ít nhỏ màu đen nhánh có vị ngọt đậm, hương thơm quyến rũ khiến bất cứ thực khách nào đã ăn 1 lần là nhớ mãi không quên.

Na theo dây cáp treo, từ từ xuống núi.

Vì cây na chủ yếu được trồng trên vách núi đá cao vút, nên để thu hoạch những quả na từ trên đỉnh núi xuống, người dân nơi đây đã chế tạo ra những chiếc ròng rọc chạy từ trên cao xuống tận chân núi. Cứ thế na được vận chuyển nhanh chóng, an toàn xuống tận chân núi cách đỉnh hàng trăm mét thẳng đứng. Chính vì na được hái cách đặc biệt như thế, nên nhiều du khách ví von rằng lên Chi Lăng được ăn "na đu dây".

Hoa hồi Lạng Sơn

Người dân địa phương coi hoa hồi Lạng Sơn là báu vật, không chỉ gắn với kỷ niệm của mỗi người mà còn gắn liền với sự phát triển kinh tế, xây dựng quê hương. Nó đã trở thành chỉ dẫn địa lý, niềm tự hào đối với bạn bè quốc tế của mỗi người dân xứ Lạng.


Cây hồi Lạng Sơn vốn là một loại cây thân gỗ lâu năm cao từ 6 - 10m, xuất hiện nhiều ở vùng núi phía Bắc nước ta. Cây có đặc điểm là lá xanh quanh năm, mọc so le với nhau, có hình lưỡi mác, nhọn dần về đuôi lá.

Mặc dù gọi là “hoa hồi” nhưng đây thực chất là quả hồi. Do có hình dạng bông hoa nên người dân quen gọi như vậy. Ngoài ra hoa hồi còn được gọi bằng những cái tên khác như: đại hồi, tai vị, quả hồi, hoặc bát giác hồi hương. Khi non hoa hồi có màu xanh lục, khi về già đài hoa sẽ khô lại và có màu nâu sẫm quen thuộc.

Cây hồi thường cho hoa từ tháng 3 - 5, khoảng tháng 7 - 9 hoa hồi bắt đầu chín và người dân có thể thu hoạch. Thông thường một cây đại hồi có tuổi đời từ 5 năm trở lên mới được lấy quả, mỗi năm cũng chỉ được thu hoạch 2 vụ nên đây được xem là mặt hàng thuộc dạng “quý hiếm”.

Hình ảnh ngôi sao đặc trưng của hoa hồi khi đã chín

Hoa Hồi Lạng Sơn vẫn được đánh giá là sản phẩm có chất lượng tốt nhất, hàm lượng tinh dầu cao và đặc biệt trong tinh dầu không có độc tố.

Tinh dầu hồi là nguyên liệu quý sản xuất thuốc xoa bóp, tiêu hóa, chế biến những đồ mỹ phẩm, hương liệu. Thân cây hồi có những hương vị đặc trưng như hạt giống, được ăn như rau. Hạt thì được chế biến và sử dụng trọng một số sản phẩm thực phẩm. Bột hoa hồi rất thích hợp cho việc làm bánh và là gia vị chủ yếu cho nhiều công thức nấu ăn như thịt vịt, thịt lợn…

Mắc mật Lạng Sơn

Cây mắc mật thường được trồng chủ yếu ở Lạng Sơn, Cao Bằng và Quảng Ninh. Cả lá, quả và hạt mắc mật đều được sử dụng làm nguyên liệu và gia vị tẩm ướp trong các món ăn của người dân tộc Xứ Lạng.

Đặc biệt mắc mật có mùi tinh dầu thơm nên được dùng tạo hương vị trong các món ăn. Quả mắc mật có vị hơi chua ngọt, rất thanh, giàu hàm lượng vitamin C, có thể ăn tươi, sấy khô và dùng để nấu. Còn hạt mắc mật thì đem phơi khô, xay thành bột, dùng để làm gia vị.

Mắc mật Lạng Sơn - bí quyết tạo nên văn hóa ẩm thực Xứ Lạng.

Mắc mật là tên gọi theo tiếng Tày, Nùng của người dân nơi đây, có nghĩa là quả ngọt. Mắc mật thuộc loại cây gỗ nhỏ, thích hợp sinh trưởng ở nơi có điều kiện khí hậu ôn hoà. Cây ra hoa từ tháng 4 - 5, quả chín từ tháng 7 - 8. Khi chín quả mắc mật gần giống như quả hồng bì, có màu trắng vàng nhạt hoặc trắng trong, vỏ mịn, sẽ nhìn thấy các đường vân và chứa từ 1 đến 2 hạt. 

Quả mắc mật có vị hơi chua ngọt được dùng để nấu, kho trong một số món ăn của người Tày hoặc dùng để ngâm măng ớt. Trong đó, mắc mật ướp măng ớt là món nổi tiếng hơn cả. Theo đó, quả mắc mật được đem rửa sạch, để ráo nước; măng tươi thái lát mỏng và chuẩn bị một ít ớt tươi. Tất cả cho vào hũ thủy tinh, đổ ngập nước muối pha loãng. Sau khoảng nửa tháng, mắc mật lên men là sử dụng được.

Quả mắc mật có thể ăn tươi khi chín vàng hoặc làm gia vị để chế biến

Với món ăn độc đáo này, mắc mật ướp vẫn giữ được vị chua ngọt và hương thơm đặc trưng lại có thêm vị chua giòn của măng, vị cay thơm của ớt. Điểm đặc biệt của món ăn này là để bao lâu cũng không sợ hỏng, dùng để khai vị, pha nước chấm, nêm nếm vào các món kho hoặc xào...

Thành Trung / Theo: doanhnhan
SẢN VẬT LẠNG SƠN (PHẦN 1)



No comments: