Saturday, August 17, 2024

BÀI THƠ "TĨNH DẠ TỨ" CỦA ĐẠI THI HÀO LÝ BẠCH ĐÃ BỊ SỬA ĐỔI TRONG LỊCH SỬ

Từ xa xưa, văn nhân đã dành tình cảm mãnh liệt cho vầng trăng sáng trong. Những vần thơ “vịnh nguyệt” cũng là một đề tài muôn thuở mà các nhà thơ đã để lại qua nhiều bản thi ca nổi tiếng.

Lý Bạch ngắm trăng (ảnh: NTD).
 
Hình tượng trăng sáng và nỗi nhớ quê hương

Trong thơ ca, trạng thái của trăng thường tượng trưng cho sự no đủ hay thiếu thốn, sự đoàn tụ hay chia ly, và thể hiện nỗi nhớ quê hương. Chẳng hạn như bài thơ ngũ ngôn bát cú “Nguyệt dạ” của Đỗ Phủ; hay câu thơ nổi tiếng “gió xuân xanh bờ nam, trăng sáng soi bao giờ?” của nhà văn Bắc Tống Vương An Thạch đều là những kiệt tác của khúc ngâm trăng và nỗi nhớ nhà.

Nhưng nếu muốn nói về nhà thơ đặc biệt yêu thích trăng sáng, e rằng phải thuộc về Lý Bạch, nhà thơ kiệt xuất nhất thời Đường thịnh thế. Trong số những bài thơ còn sót lại của ông, một phần tư có liên quan đến mặt trăng, và bài nổi tiếng nhất là bài “Tĩnh dạ tứ” (静夜思 dịch nghĩa là suy nghĩ trong đêm yên tĩnh).

Lý Bạch bản tính phóng khoáng, yêu tự do, không thích bị gò bó. Những âm mưu, toán tính chốn quan trường chắc chắn là rào cản vô hình với Đạo mà ông theo đuổi. Nó kìm hãm tâm hồn phiêu bồng, thoát tục và phong thái ung dung tĩnh lặng của người tu luyện. Sự táo bạo và thẳng thắn của Lý Bạch đã khiến nhiều quan chức thượng cấp mất lòng.

Lý Bạch say khướt trước mắt vua Đường Huyền Tông (ảnh: NTD).

Mặc dù thất thế việc triều chính, nhưng Lý Bạch đã đạt đến đỉnh cao trong sáng tác thơ ca. Ông đã cho ra đời vô số bài thơ nổi tiếng được lưu truyền qua các thời đại.

Dưới thời cai trị của Hoàng đế Đường Huyền Tông, Lý Bạch rời xa núi Nga Mi và nương thân trong một khách điếm ở Dương Châu. Xa cách quê hương vào một đêm trăng sáng, và những suy nghĩ của ông nảy sinh một cách tự nhiên. Bài thơ đã ra đời trong hoàn cảnh đó.

Trải qua các thời đại, bài thơ “tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch mặc dù câu cú giản dị, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu nhưng thi vị đậm đà với hàm ý thâm sâu, có thể kích thích tư duy độc giả. Và nỗi nhớ nhà của tác giả được biểu hiện một cách vô cùng sâu sắc và tinh tế.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dường như người ta vẫn còn nhìn thấy bóng dáng cô đơn của Lý Bạch dưới ánh trăng sáng và tất nhiên ai nấy đều cảm nhận được nỗi nhớ nhà da diết của ông. 

(ảnh: Soundofhope).

Bài thơ đã bị sửa đổi có làm thay đổi ý tứ của tác giả?

“Tĩnh dạ tứ” (静夜思) được đưa vào sách giáo giáo khoa trung học tại nhiều quốc gia. Nó có thể được coi là người thầy đầu tiên trong thế giới thơ ca cổ đại dành cho thiếu niên. Nhưng bài thơ mà chúng ta quen thuộc, có thể mở miệng ngâm nga từ khi còn nhỏ này đã trải qua nhiều lần phóng tác trong hàng thiên niên kỷ. “Tĩnh dạ tứ” còn đọng lại trong trí nhớ của chúng ta không phải là nguyên tác của Lý Bạch.

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu nguyên tác của bài thơ:

Sàng tiền khán nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng san nguyệt,
Đê đầu tứ cố hương.

(Tạm dịch là: Trước giường nhìn trăng sáng/ Ngỡ là sương đọng trên mặt đất/ Ngẩng đầu ngắm núi trăng / Cúi đầu nhớ quê hương xưa.)

Bài thờ bị đổi lại như sau:

床前明月光
疑是地上霜
舉頭望明月
低頭思故鄉

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

(Tạm dịch là: Trước giường ánh trăng sáng / Ngỡ là sương đọng trên mặt đất/ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ quê hương xưa.)

(ảnh: Soundofhope).

Bài thơ này chỉ có hai chữ được thay đổi so với nguyên tác: “Nhìn trăng” đã trở thành “ánh trăng sáng”, và “vọng san nguyệt” (ngắm trăng, ngắm núi) đã trở thành trở thành “vọng minh nguyệt” (ngắm trăng sáng).

Tuy nhiên, việc chuyển thể lời thơ của các bậc thầy thi ca cổ đại là rất khó khăn. Một từ thay đổi sẽ làm dấy lên nghi ngờ trong giới học thuật. “Tĩnh dạ tứ” đã bị thay đổi nhiều lần trong lịch sử và có tới ba lần sửa đổi quan trọng.

Lần thứ nhất là vào thời Vạn Lịch triều Minh, khi đăng ‘Vạn Thọ Đường thi tứ’, Triệu Nhất Quang và những người khác đã đổi câu thứ ba “vọng san nguyệt” thành” (ngắm núi ngắm trăng) thành “vọng minh nguyệt” (ngắm trăng sáng).

Lần sửa đổi thứ hai là vào thời Khang Hy nhà Thanh, trong “Đường thơ Biệt Cai”, Thẩm Đức Khiêm đã sửa câu đầu tiên “khán nguyệt quang” (ngắm trăng sáng) thành “minh nguyệt quang” (trăng sáng); câu thứ ba vẫn giữ nguyên là “vọng minh nguyệt“ (nhìn trăng sáng).

Lần sửa đổi thứ ba là vào thời vua Càn Long nhà Thanh, sau khi tham khảo kinh nghiệm sửa đổi của tiền nhân, Tôn Trúc đã hoàn thiện bản hiện đang được lưu truyền rộng rãi và đưa vào cuốn “Đường thi tam bách thủ”.

(ảnh: Soundofhope).

Sau quá trình chỉnh sửa, bởi nhà Tống gần nhà Đường hơn; các sĩ phu đời Tống cũng rất coi trọng tính độc đáo khi thu thập và biên soạn. Vì vậy, trong quá trình truyền bá, bản đời Tống là gần với tác phẩm thực nhất, đồng thời cũng chính xác nhất.

Vậy “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch có phải là một kiệt tác nguyên bản không? Trên thực tế, việc giả mạo các bài thơ cổ chỉ được phép phóng tác sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng. Để chuyển thể một bài thơ cổ, cần phải có một lời giải thích hợp lý.
 
Hình tượng “sàng”

Chữ “sàng” trong bài thơ gốc khiến nhiều người có khả năng đặt ra câu hỏi và trở thành tâm điểm của sự bất đồng.

Lâu nay ai cũng cho rằng chữ 床 “sàng” trong bài thơ là chiếc giường để ngủ. Một số học giả thời hiện đại cho rằng, nếu “sàng” trong bài thơ là “giường” để ngủ, thì sương trên mặt đất là ở trong phòng ngủ, Lý Bạch dẫu có ngẩng đầu lên thì làm sao có thể ngắm trăng qua nóc nhà?

Vậy “sàng” trong bài thơ không phải là cái giường để ngủ. Câu hỏi và câu trả lời thông minh này đã được nhiều người công nhận.

Lý Bạch (ảnh: Soundofhope).

Cho nên, người đời sau đã không ngừng thảo luận, có năm giả thuyết lưu truyền rộng rãi. Đầu tiên “sàng” này chỉ cái nắp đậy giếng. Thời cổ đại, bệ giếng hình vuông, được ghép từ ván gỗ cũng tựa như ván gỗ đóng giường. Ban đêm do sự chênh lệch nhiệt độ có thể nhìn thấy sương giá, điều đó phù hợp với cảnh trong bài thơ.

Thứ hai chữ “sàng” nói đến bờ giếng. Thời cổ đại, bờ giếng được đóng ngay bên cạnh giếng tiện cho sinh hoạt. Bời giếng còn được gọi là sàng bạc. Chúng ta có thể thấy bờ giếng và chữ “sàng” có mối liên hệ nhất định. Có thể lúc bấy giờ nhà thơ của chúng ta đã ngước nhìn vầng trăng bên bờ giếng. 

(ảnh: Soundofhope).

Giả thuyết thứ ba là “sàng” được kết nối với “cửa sổ”. Cửa sổ hộp gỗ là một tên gọi khác của “sàng”. Bởi vì khi nhìn ra ngoài cửa sổ, người ta có thể nhìn lên mặt trăng trên bầu trời và nhìn xuống lớp sương phủ trên mặt đất.

Cách nói thứ tư, “sàng” là chỉ đồ dùng để ngồi hay nằm, ở đây là giữ nguyên nghĩa gốc của từ.

Cuối cùng, chữ “sàng” đề cập đến chiếc giường Hồ cổ xưa. Nó là một chiếc ghế nằm có thể gập lại. Có thể, Lý Bạch đang mang chiếc ghế gấp ra sân, nằm ngửa mặt nhìn trăng trên trời và nhớ quê hương cũ. Như vậy, cả năm giả thuyết trên đều khá hợp lý.

(ảnh: Soundofhope).

“Tĩnh dạ tứ” (静夜思) là tác phẩm tiêu biểu của đại thi hào Lý Bạch; chỉ với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt được viết trong trẻo, giản dị, không có tưởng tượng so sánh ví von mới lạ, không hoa mỹ, chỉ được viết bằng giọng điệu tự sự để bày tỏ nỗi nhớ nhà của khách phương xa. Tuy nhiên, nó đã được ca ngợi rộng rãi trong hàng ngàn năm.

Khi đọc bản nguyên tác, chúng ta hiểu được chữ “sàng” này là gì. Nhưng trong “tĩnh dạ tứ” chữ “sàng” dẫu là một hàng rào gỗ, một cái giếng hay bất cứ thứ gì đại loại như vậy, thì đó cũng chỉ là một vật dụng. Vấn đề về “sàng” là do quan điểm cá nhân. Nhưng nỗi nhớ “quê cũ” có lẽ nghìn người cũng như một.

Nếu giờ đây, trong màn đêm yên tĩnh, mặt đất trong sân phủ một tầng ánh trăng như sương thu, trong cảnh xa quê cũ biền biệt, mọi người ngắm trăng sáng trong hiu quạnh; cảm xúc đó chúng ta có thể cảm nhận được.

Minh Nguyệt biên dịch
Nguồn: Soundofhope.
Link tham khảo:



No comments: