Sunday, August 4, 2024

NGƯỜI XƯA THƯỜNG NÓI "TAM THÊ, TỨ THIẾP", LÀ CHỈ TAM THÊ NÀO VÀ TỨ THIẾP GÌ?

Câu nói “Tam thê, tứ thiếp” lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm văn học “Kim Bình Mai” của triều đại nhà Minh, dùng để chỉ một người đàn ông có nhiều thê thiếp. Trên thực tế, “tam thê tứ thiếp” mà người xưa nhắc đến cũng có những ám chỉ cụ thể, vậy thì “tam thê, tứ thiếp” có nghĩa là gì?

Người xưa thường nói “tam thê tứ thiếp” ám chỉ ba thê thiếp nào? Ảnh: Ngôi sao

1. “Tam thê” có nghĩa là gì?

“Tam thê” trong tam thê tứ thiếp chỉ chính thê, thiên thê và hạ thê.

Chính thê là người có địa vị cao nhất trong “ba vợ”. Khi một người đàn ông cưới chính thê, phải khiêng cô ấy vào cổng lớn bằng kiệu hoa tám người khiêng. Ngoài ra giữa chính thê và chồng đều có địa vị bình đẳng như nhau. Trong xã hội dân gian, người ta sẽ gọi chính thê là vợ kết tóc se tơ. Trong hoàng cung xưa, chính thê là hoàng hậu của hoàng đế và có địa vị rất tôn quý.

Trong xã hội cổ xưa quy định nam giới chỉ được lấy một chính thê, nếu lấy nhiều hơn một chính thê thì sẽ bị quan lại trừng phạt. Ngoài ra, chính thê không thể bị nam nhân ly hôn, mà cho dù không được sủng ái cũng không thể biến thành thê thiếp. Có thể thấy, thời xa xưa chính quyền cũng có những luật lệ, quy định đặc biệt để bảo vệ chính thê.

Trong cung điện xưa, chính thê là hoàng hậu của hoàng đế và có địa vị rất cao quý. Ảnh: Dân Việt

Ngoài chính thê ra còn có thiên thê cùng hạ thê. Địa vị của những thiên thê và hạ thê này trong gia đình thấp hơn so với những người chính thê và cao hơn những các thiếp. Đây là sự khác biệt rõ ràng nhất giữa vợ và thê thiếp.

2. “Tứ thiếp” là gì?

“Tứ thiếp” trong tam thê tứ thiếp chỉ chính lương thiếp, quý thiếp, tiện thiếp, bình thiếp.

Lương thiếp, địa vị trong nhà cao hơn các thiếp khác. Nam tử trước khi cưới lương thiếp vào nhà, đều sẽ viết văn thư nạp thiếp, cũng lấy đó làm bằng chứng. Đối với lương thiếp mà nói, mặc dù địa vị trong nhà thấp, nhưng cuộc sống an ổn nửa đời sau, đồng dạng có thể dựa vào văn thư nạp thiếp, được cuộc sống bảo đảm tương ứng.

Quý thiếp, thường là người phụ nữ tùy giá từ nhà mẹ đẻ của chính thê, tuổi tác tương đối lớn, dựa vào quan hệ thân mật với chính thê, địa vị của họ trong gia đình cũng tương đối cao.

“Tứ thiếp” là chỉ lương thiếp, quý thiếp, tiện thiếp, bình thiếp. Ảnh: VnExpress

Tiện thiếp ám chỉ những người phụ nữ không có xuất thân đứng đắn. Những người làm thê thiếp thấp hèn thường là gái lầu xanh hoặc là kỹ nữ, đa số đều có dung mạo xuất chúng hoặc tài năng phi thường, sau khi được nam nhân sủng ái sẽ được nam nhân chuộc ra khỏi lầu xanh, từ đó mà sống ổn định sau khi kết hôn.

Bình thiếp, là thiếp thất bình thường, cũng là loại cuối cùng trong “Tứ thiếp”. Các bình thiếp vừa không có văn thư nạp thiếp của mình, cũng không có quan hệ thân mật với chính thê, thiên thê hoặc hạ thê trong nhà, càng không có dung mạo hoặc tài hoa hơn người, nhiệm vụ chủ yếu là vì trượng phu sinh con, truyền tục hương khói.

Chế độ đa thê thực chất là chế độ một vợ một chồng nhưng có nhiều thê thiếp

Một số đàn ông hiện đại có thể ghen tị với cuộc sống của đàn ông cổ đại vì họ có “ba vợ, bốn thê”. Trên thực tế, vào thời Ân Thương, chế độ một vợ một chồng đã trở thành xu hướng xã hội chủ đạo, và nhiều vị vua của triều đại Ân đã chọn chế độ một vợ một chồng. Có nhiều lý do dẫn đến chế độ một vợ một chồng và đa thê, nhưng mục đích chính của hôn nhân là gánh vác gia đình.

Chế độ đa thê thực chất là chế độ nhiều hơn một vợ (nhiều thê thiếp). Ảnh: Ngôi sao

Vào thời nhà Chu, “chế độ thê thiếp” được bổ sung trên cơ sở tiếp nối của hệ thống Ân Thương, và quy định rõ ràng rằng chỉ có thể có một “chính thê”, còn lại là “thê tử”. Còn “nguyên phối” (phát thê) dùng để chỉ người chính thê, sau khi chính thê qua đời hoặc chính thê tái hôn sau khi ly hôn thì gọi là “kế thất” hoặc “điền phòng”.

Thiếp không được phép làm chính thê, cho dù là hoàng đế cũng phải tuân thủ quy tắc “một chính thê, những người khác đều chỉ là thiếp”. Lúc này mới xuất hiện sự khác biệt “thê tôn thiếp ti”, “con chính thê là con trai trưởng, con thiếp là thứ tử”, cùng với lý “chính thê chi tử vy đích tử, thiếp chi tử vy thứ tử“.

“Bình thê” (còn gọi là hựu xưng tịnh đích) là một người phụ nữ được một thương nhân kết hôn khi anh ta đang làm việc bên ngoài, tức là người vợ tồn tại đồng thời với chính thê. Mặc dù gọi là “thê tử”, nhưng về mặt pháp lý của nhà Minh và Thanh thì vẫn là thân phận “thiếp”.

Chế độ đa thê thực chất là chế độ có nhiều hơn một vợ (nhiều thê thiếp). Chỉ một số ít người lấy thê thiếp, chủ yếu là những người có địa vị xã hội cao, trong khi dân thường hiếm khi có cơ hội lấy thê thiếp. Vì vậy, lấy thê thiếp được coi là đặc quyền của những người có quyền lực trong xã hội cổ xưa.

Sen vàng biên tập
Đăng Dũng / Theo: vandieuhay

No comments: