Tuy làm quan đến nhất phẩm, có đủ mọi quyền hành, nhưng cuộc sống của Trịnh Hoài Đức vẫn rất thanh bần, chưa có dinh thự tử tế. Đến nỗi vua Minh Mạng phải ban cho hai nghìn quan tiền và vật liệu để ông làm nhà ở cửa đông ngoại thành.
Từ chối chức cao vì sợ không làm tròn
Năm Gia Long thứ 11 (1812), Trịnh Hoài Đức về Kinh dự lễ Ninh lăng Hiếu Khương Hoàng hậu. Đến tháng 7, Trịnh Hoài Đức được cử giữ chức Thượng thư bộ Lễ và kiêm việc Khâm thiên giám. Năm 1813, Trịnh Hoài Đức lại đổi sang Lại bộ Thượng thư và đến năm sau lại vào làm Hiệp tổng trấn thành Gia Định.
Năm Minh Mạng thứ 1 (1820), Trịnh Hoài Đức được cử giữ chức quyền tổng trấn thay Nguyễn Văn Nhân về Kinh. Đến mùa hạ cùng năm Minh Mạng lại vời Trịnh Hoài Đức về Kinh giữ bộ Lại như trước và sung chức phó tổng tài ở Quốc sử quán, lĩnh Lại bộ Thượng thư kiêm cả Binh bộ. Trước khi nhận chức, Trịnh Hoài Đức dâng biểu từ chối vì lĩnh nhiều việc quan trọng sợ không làm tròn, nhưng nhà vua không cho.
Mùa đông năm 1820, Trịnh Hoài Đức hộ giá ra Bắc tuần, đến khi về ông dâng lên nhà vua hai bộ sách: Lịch đại kỷ nguyên và Khang Tế Lục.
Mùa đông năm 1820, Trịnh Hoài Đức hộ giá ra Bắc tuần, đến khi về ông dâng lên nhà vua hai bộ sách: Lịch đại kỷ nguyên và Khang Tế Lục.
Mùa thu năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Trịnh Hoài Đức dâng sớ cáo lão và xin được về chốn cũ là Gia Định vì tuổi đã cao và có nhiều bệnh tật. Nhưng nhà vua không muốn để Trịnh Hoài Đức về, bèn sai ngự y trông nom thuốc thang cho ông và ban nhiều sâm, quế để bổ dưỡng sức khoẻ. Đến mùa đông, Trịnh Hoài Đức lại mạnh khoẻ vào bệ kiến tạ ơn vua.
Quan nhất phẩm chưa có dinh thự tử tế
Tuy cuộc đời làm quan đến nhất phẩm, có đủ mọi quyền hành, nhưng cuộc sống của ông vẫn hết sức thanh bần, chưa có dinh thự tử tế. Thấy vậy, vua Minh Mạng mới ban cho hai nghìn quan tiền và vật liệu để cho Trịnh Hoài Đức làm nhà ở cửa đông ngoại thành.
Mùa đông năm Ất Dậu (1825), năm Minh Mạng thứ 6, Trịnh Hoài Đức mất, hưởng thọ 61 tuổi. Vua Minh Mạng vô cùng thương tiếc, bãi triều ba ngày và truy tặng cho Trịnh Hoài Đức là "Thiếu phó Cần chánh điện Đại học sĩ, tên thuỵ là Văn Khác", xuống chiếu xuất tiền kho làm ma, đưa linh cữu Trịnh Hoài Đức về an táng tại Gia Định và sai ông hoàng Miên Hoằng thay mặt đi đưa đám. Khi linh cữu về đến Gia Định thì có cả quan tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt đến phúng viếng và đưa đến huyệt tại làng Bình Tước thuộc tỉnh Biên Hoà.
Trong nhà Hội quán Minh Hương Gia Thạnh ở Chợ Lớn cũng có thần vị Trịnh Hoài Đức và Nhữ Sơn Ngô Nhân Tĩnh.
Khi sinh thời ở Gia Định, Trịnh Hoài Đức cùng Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh đều tụ tập nhau xướng họa mua vui. Văn thơ của ba người ấy nổi danh một thời bấy giờ và hiện nay còn tập Gia Định tam gia thi. Riêng Trịnh Hoài Đức còn có những tập Cấn trai thi tập, Bắc sử thi tập.
Đặc biệt, cuốn Gia Định Thông chí của ông đến nay vẫn được xem là những sử liệu có giá trị đối với các nhà nghiên cứu về lịch sử và địa lý của miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm ấy có giá trị về mặt văn học, sử học trong thế kỷ XIX và ngay đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Thơ văn của Trịnh Hoài Đức đến nay vẫn còn lưu giữ được khá nhiều. Hiện nay, ở Hà Nội, Sài Gòn đều có đường phố mang tên Trịnh Hoài Đức.
Chí Đức
Sơ lược tiểu sử:
Trịnh Hoài Đức (chữ Hán: 鄭懷德; 1765 - 1825), còn có tên là An(安), tự Chỉ Sơn (止山), hiệu Cấn Trai (艮齋); là một công thần của triều Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 18. Sinh thời, ông từng được vua nhà Nguyễn ban tước An Toàn hầu.
Đặc biệt, quyển Gia Định thành thông chí của ông cho đến nay vẫn được xem là một trong những sử liệu quan trọng nhất cho các nhà nghiên cứu sử học và địa lý của miền Nam Việt Nam.
Tổ tiên ông vốn là người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), sang Đàng Trong (thuộc Việt Nam ngày nay) thời chúa Nguyễn Phúc Tần; trước ngụ ở Phú Xuân (Huế), sau vào ở Trấn Biên (vùng Biên Hòa ngày nay).
Cha ông tên là Khánh, vốn dòng dõi khoa hoạn, được chúa Nguyễn Phúc Khoát thu dụng, cho làm An Dương Cai thủ, rồi làm Chấp canh tam trường Cai đội.
Năm lên 10, cha mất, Trịnh Hoài Đức theo mẹ vào sống ở Gia Định, theo học với thầy Võ Trường Toản tại Hòa Hưng (nay thuộc quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh). Trong số bạn học của ông lúc bấy giờ, có Ngô Tùng Châu và Lê Quang Định, về sau cũng đều là công thần của nhà Nguyễn.
Khi quân Tây Sơn vào Nam, ông chạy sang Chân Lạp (Campuchia ngày nay).
Năm Mậu Thân (1788), sau khi đánh lấy được Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho mở khoa thi để chọn người giúp việc. Trịnh Hoài Đức đỗ khoa ấy, được bổ làm Hàn lâm chế cáo. Đến năm sau (1789), ông được bổ làm Tri huyện ở Tân Bình, rồi được kiêm làm Điền toán trông coi việc khai khẩn đất đai ở Gia Định. Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
"Năm Kỷ Dậu (1789), tháng 6,...mới đặt quan Điền toán (coi về sự cày cấy làm ruộng), cho bọn Hàn lâm chế cáo là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Hoàng Minh Khánh, cả thảy 12 người kiêm việc này...
Tháng 3 năm Quý Sửu (1793), ông lãnh chức Đông Cung Thị Giảng. Tháng 11 năm đó, ông được cử theo Đông Cung Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh) ra giữ thành Diên Khánh.
Năm sau (Giáp Dần, 1794), ông được thăng làm ký lục dinh Trấn Dinh, rồi được bổ làm Hộ bộ Hữu Tham tri.
Năm Tân Dậu (1801), khi chúa Nguyễn mang quân ra đánh lấy Phú Xuân, Trịnh Hoài Đức lo việc gặt hái ở Quảng Nam và Quảng Ngãi để tiếp vận quân lương.
Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) chúa Nguyễn lên ngôi ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long. Sau đó, ông được phong làm Thượng thư bộ Hộ, đồng thời sung làm Chánh sứ sang Thanh (Trung Quốc). Cùng đi với ông hai Phó sứ là Hữu Tham tri bộ Binh Ngô Nhân Tịnh (hay Tĩnh) và Hữu Tham tri bộ Hình Hoàng Ngọc Uẩn.
Năm 1808, ông được bổ làm Hiệp trấn Gia Định Thành, phụ tá cho Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn (hay Nhân). Năm 1812, ông được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thượng thư, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm 1813 lại đổi làm Lại bộ Thượng thư. Năm 1816 ông lại được bổ nhiệm làm Hiệp Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai. Sau khi, Tổng trấn Nhơn về kinh, ông tạm giữ quyền Tổng trấn (1820).
Đầu năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mạng lên nối ngôi. Sau đó, nhà vua cho triệu ông về kinh làm Lại bộ Thượng thư như trước, lại kiêm cả Binh bộ Thượng thư, đồng thời sung chức Phó Tổng tài Quốc sử giám, thăng Hiệp biện Học sĩ. Kiêm lĩnh nhiều việc quan trọng, sợ mình không làm tròn, ông đã từ chối đôi ba lượt; nhưng vì vua Minh Mạng tỏ lòng ưu ái nên ông đành phải vâng mạng. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua xuống chiếu cầu sách cũ. Trịnh Hoài Đức dâng lên quyển Gia Định thành thông chí (do ông biên soạn) và quyển Bột di ngư văn thảo (của Mạc Thiên Tứ).
Tháng 9 năm Tân Tỵ (1821), nhà vua ngự giá ra Bắc, ông được đi theo. Khi về, ông dâng lên vua hai quyển là Lịch đại kỷ nguyên và Khang tế lục
Năm 1822, ông được cử làm Giám khảo kỳ thi ân khoa.
Năm 1823, thấy mình già yếu, ông dâng sớ xin từ quan. Vua Minh Mạng sai đại thần Phạm Đăng Hưng đến thăm và lưu ở lại, ông đành phải xin về nghỉ dưỡng 3 tháng. Mãn hạn nghỉ phép, ông trở ra Huế, nhà vua ban cho ông 2.000 quan tiền và vật liệu để ông làm nhà ở phía cửa Đông ngoài thành.
Tháng 2 năm Tân Tỵ (1825), Trịnh Hoài Đức mất vì bệnh tại Huế, thọ 61 tuổi
(theo Wikipedia)
No comments:
Post a Comment